Categories
Sự phát triển của trẻ Sức khỏe trẻ em Triệu chứng và bệnh phổ biến

Trẻ bị sốt nên làm gì?

Tại sao trẻ bị sốt?
Khi bé bị sốt, bạn thường rất lo sợ. Nhưng bạn nên biết rằng bị sốt là dấu hiệu cho thấy hệ miễn dịch của bé đang hoạt động và chống lại sự lây nhiễm, đừng quá lo nhé. Khi bé bị nhiễm virus hay vi khuẩn, cơ thể bé sẽ phản ứng bằng cách tăng thân nhiệt.

Có nên đi khám bác sĩ?
Từ khi chào đời cho đến khi bé 3 tháng tuổi, bạn nên đưa bé đến gặp bác sĩ nếu có những triệu chứng sau:

– Thân nhiệt cao hơn 38 độ C.

– Bé trông xanh xao hoặc ửng đỏ, lờ đờ, không ngon miệng.

– Hành vi và bề ngoài của bé thay đổi theo hướng không tốt.

Trẻ bị sốt
Kiểm tra thân nhiệt của bé nếu bạn cảm thấy bé có dấu hiệu bị sốt

Khi đến gặp bác sĩ, phải nói rõ bé đã sốt bao lâu, bạn đã chăm sóc bé ra sao và những dấu hiệu khác bé đang gặp phải. Dựa trên thông tin này, bác sĩ sẽ xác định được mức độ nghiêm trọng và có phương pháp chữa trị phù hợp. Đừng tự ý cho bé uống thuốc, vì bé còn quá nhỏ, rất nguy hiểm khi cho bé uống sai liều, và thuốc có thể che giấu các dấu hiệu bệnh của bé, khiến bác sĩ khó khăn trong việc chẩn đoán bệnh.

Làm sao để giúp bé thấy dễ chịu hơn?

– Làm mát bé bằng cách mặc cho bé quần áo thoáng mát và đắp một chiếc khăn vắt nước ấm, sẽ giúp làm giảm nhiệt độ cơ thể bé. Tránh tắm bé với nước lạnh, có thể khiến bé bị lạnh đột ngột, thậm chí làm tăng cao thân nhiệt thực tế của bé.

– Cho bé bú sữa thường xuyên và có thể thêm cữ bú để giúp ngăn ngừa mất nước.

– Cho bé uống thuốc giảm sốt thích hợp theo toa bác sĩ.

– Không bao giờ cố gắng hạ nhiệt cho bé bằng cách xoa cồn lên da, vì cồn có thể thẩm thấu vào mạch máu, gây ra động kinh và các vấn đề nghiêm trọng khác.

Categories
Sự phát triển của trẻ Sức khỏe trẻ em Rối loạn hành vi và phát triển

Hội chứng thiếu tập trung ở trẻ nhận biết như thế nào?

Hội chứng thiếu tập trung ở trẻ hay còn gọi là rối loạn tăng động giảm chú ý. Đây là một hội chứng rất phổ biến khiến trẻ nhỏ không thể tập chung vào một việc nào đó. Căn bệnh này tuy không gây nguy hiểm đến tính mạng song sẽ ảnh hưởng lâu dài tới tương lai của bé về sau vì vậy cha mẹ nên cẩn trọng.Hội chứng thiếu tập trung ở trẻ

Hội chứng thiếu tập trung ở trẻ là gì?

Rối loạn giảm tập trung được chia thành hai dạng khác biệt. Dạng thường gặp là rối loạn tăng động giảm chú ý (Attention Deficit Hyperactivity Disorder) có liên quan đến thần kinh. ADHD là một chẩn đoán được gắn cho những trẻ và người lớn thường xuyên có biểu hiện hành vi nhất định, duy trì liên tục trong một khoảng thời gian. Các đặc điểm biểu hiện thường gặp là thiếu tập trung, bốc đồng và hiếu động thái quá.

Hầu hết trẻ được chẩn đoán ADHD có biểu hiện tăng hoạt động quá đà. Những trẻ này hay “nhảy” từ việc này sang việc khác, thể hiện cả sự tăng động thể chất và duy trì tập trung liên tục kém. Theo thống kê, cứ 100 trẻ thì có từ 3 đến 5 trẻ mắc chứng bệnh này. Việt Nam tuy chưa có thống kê cụ thể nhưng theo một nghiên cứu trên 1.594 học sinh ở hai trường tiểu học tại Hà Nội cho thấy tỷ lệ mắc bệnh là 3%.

Dạng ít gặp hơn được gọi là rối loạn giảm chú ý (Attention Deficit Disorder) mà không có tăng động. Mặc dù ít phổ biến như ADHD, thế nhưng ADD vẫn ảnh hưởng khoảng 4 đến 12% trẻ. Những trẻ này cũng rất kém trong việc tập trung, nhưng không bằng như hoạt động thể chất (hoặc phá hoại). Trẻ nam thường mắc bệnh này hơn trẻ nữ, gấp 3-4 lần. Tuy nhiên, trẻ nữ rơi vào nhóm không tăng động cao hơn. Những trẻ này thường ít nói và cư xử tốt hơn các trẻ nam mắc bệnh tương tự, nhưng sự giảm chú ý thì ngang nhau.

Mẫu số chung của hai nhóm này là thiếu tập trung lâu dài tới những công việc cần thiết để đạt được thành tựu. Hiện nay y học đã có các tiêu chuẩn nghiêm ngặt và chuẩn hóa mà các nhân viên y tế có thể áp dụng chẩn đoán. Phác đồ điều trị bao gồm tất cả chẩn đoán bệnh tâm thần và các chẩn đoán khác liên quan.

Nguyên nhân gây bệnh thường do các nguyên nhân như di truyền, bệnh lý khi mang thai, tổn thương não khi sinh, bệnh lý sau sinh. Bên cạnh đó, các yếu tố môi trường như môi trường sống ồn ào, đông đúc, lộn xộn hay ô nhiễm cũng được cho là nguyên nhân gây bệnh. Ngoài ra, cũng không loai trừ khả năng do trẻ nghiện trò chơi điện tử, internet hoặc xem ti vi quá nhiều.Hội chứng thiếu tập trung ở trẻ

Chẩn đoán hội chứng thiếu tập trung lâu dài ở trẻ

Trẻ bị ADD thường không được chẩn đoán trước giai đoạn 5-7 tuổi. Chủ yếu là do khi đến tuổi đi học, việc học ở trường đòi hỏi sự tập trung, vâng lời và khoảng thời gian không hoạt động, thì thầy cô giáo mới bắt đầu phát hiện những trẻ không đáp ứng được những yêu cầu trên. Ngược lại, khi bắt đầu 6 tuổi, trẻ bị ADD bắt đầu không “đạt chuẩn”. Mặc dù để thỏa điều kiện của ADD, các triệu chứng phải thể hiện trước 7 tuổi, nhưng nhiều khi những “triệu chứng” này không được xem là thái độ hành vi “có vấn đề”.

Theo Viện Hàn Lâm Nhi khoa của Mỹ thì chẩn đoán rối loạn này ở trẻ trước tuổi đi học có thể rắc rối hơn, và không đáng tin cậy. Không chỉ có năng lượng cao và thời gian tập trung chú ý ngắn so với thái độ hành vi của trẻ chập chững biết đi và trẻ chưa đến tuổi đi học bình thường, mà sự khác biệt trong tính cách và tốc độ phát triển cũng ảnh hưởng đến hành vi nữa.

Như vậy, có thể nói ADD là một chuỗi các hành vi gồm bốc đồng, hiếu động thái quá, thiếu chú tâm, mong manh, và đôi khi còn gây hấn. Việc chẩn đoán đòi hỏi có xuất hiện một vài (nhưng không phải tất cả) những hành vi trên. Chúng phải nhất quán theo thời gian và xuyên suốt những tình huống xã hội khác nhau. Một đứa trẻ hiếu động thái quá ở nhà nhưng ngoan ngoãn ở trường hoặc người lại, là có vấn đề ở hoàn cảnh chứ không phải bị ADD.

Các triệu chứng cũng phải hiện hữu ít nhất 6 tháng trước thì mới được chẩn đoán là ADD. Không có thử máu, không có chụp hình não và không có xét nghiệm nào tìm được bệnh ADD. Chẩn đoán là lâm sàng, dựa theo sự giám sát trẻ, thường được đánh giá bởi bảo mẫu hoặc thầy cô giáo của trẻ trong bản câu hỏi về thái độ hình vi. Bác sĩ thần kinh, bác sĩ tâm thần, bác sĩ nhi khoa hoặc bác sĩ gia đình đều có thể thực hiện chẩn đoán này.

Các thái độ hành vi đánh giá theo bảng câu hỏi sẽ được xếp loại và cho điểm. Nếu điểm cao đủ để nghi ngờ ADD, một thử nghiệm dùng thuốc có thể được đưa ra và đo hiệu quả bằng bảng câu hỏi thứ hai. Mặc dù mất đến vài tuần để hoàn thành, việc thực hiện quan trọng này mục đích nhằm tăng cường độ chính xác của chẩn đoán và cung cấp một số bằng chứng cho thấy thuốc cũng có hiệu quả khả quan.

Khi xem xét chẩn đoán lâm sàng như ADD, điều quan trọng là loại trừ những nguyên nhân nghiêm trọng khác gây thái độ hành vi như bị ADD. Chẳng hạn trầm cảm, rối loạn stress sau chấn thương, bị lạm dụng, có vấn đề về nghe hoặc nhìn, hay bị rối loạn học tập. Trên thực tế, 25% trẻ bị ADD cũng đồng thời có một số dạng rối loạn học tập, khiến nó đáng để sàng lọc tất cả những trẻ như vậy bằng một đánh giá phát triển toàn diện.Hội chứng tăng động giảm chú ý

Các hướng điều trị hội chứng thiếu tập trung

Các hướng chữa trị thường bao gồm không chỉ là dùng thuốc. Đây là một thực tế rất thường bị bỏ qua khi ADD được tranh luận phổ biến trên báo chí. Môi trường giáo dục thuận lợi cho việc học cũng quan trọng như điều trị y tế. Điều này thường có liên quan nhiều đến cấu trúc và chương trình giáo dục đặc biệt một cách thường xuyên và một lớp học nhỏ hơn.

Phụ huynh phải được đưa vào chương trình điều trị bằng cách cơ cấu cuộc sống ở nhà một cách khác biệt và giáo dục bản thân họ và gia đình về ADD. Đôi khi hình thức lấy ý kiến cũng có lợi. Đối với nhiều trẻ, chỉ cần can thiệp cơ cấu và thái độ hành vi là đủ, không cần điều trị bằng thuốc. Cũng không được điều trị cho trẻ chỉ bằng thuốc mà không có những can thiệp khác.

Kê thuốc điều trị hội chứng thiếu tập trung lâu dài

Khi có dấu hiệu cần điều trị bằng thuốc, methylphenidate, hoặc “Ritalin®” thường được thử đầu tiên. Mặc dù có tác dụng như chất kích thích với hầu hết chúng ta, Ritalin® lại có tác dụng ngược lại đối với những trẻ bị ADD, làm dịu tinh thần và giúp trẻ tập trung tốt hơn đối với phần lớn trẻ. Thống kê cho thấy 80% trẻ bị ADD được điều trị bằng Ritalin® và 85% số trẻ này đều có tác dụng tích cực ngắn hạn.

Một nghiên cứu gần đây cho thấy ước tính khoảng 3 triệu trẻ em bị chứng thiếu tập trung (ADD) đều được kê toa Ritalin®, gấp đôi con số năm 1990. Một liều thông dụng của Ritalin® là từ 5 đến 40 miligram mỗi ngày, chia làm 2 hoặc 3 cữ. Ritalin® có tác dụng nhanh, nhưng chỉ duy trì hiệu quả trong khoảng 4 tiếng, vì thế nên nhiều trẻ uống một liều vào buổi ăn sáng cho hiệu quả tốt lúc 10g sáng, nhưng cần thêm một liều thứ hai vào buổi trưa. Tác dụng phụ lớn nhất của Ritalin® là ức chế sự thèm ăn, do vậy cần phải giám sát chặt chẽ sự phát triển của trẻ khi cho dùng thuốc.

Cuối cùng…

Thống kê cho thấy con số chẩn đoán ADD đã tăng lên. Số lượng được kê toa methylphenidate, một loại thuốc điều trị từ năm 1937, đã tăng gấp ba trong vòng bảy năm qua. Tuy vậy điều này vẫn chưa rõ là do có sự gia tăng bệnh nhân ADD thật sự hay nhận thức đã cao hơn khiến dẫn tới việc chẩn đoán cũng tăng theo. Những gì mà bậc cha mẹ có thể làm để bảo vệ trẻ khỏi việc bị chẩn đoán quá đà là bảo đảm các chỉ dẫn chính xác phải được thực thi. Việc chẩn đoán chỉ nên được thực hiện khi thỏa điều kiện như mô tả trong DSM 3 (diagnostic and statistical manual of mental disorders-sách chẩn đoán và thống kê các rối loạn tâm thần).

Phụ huynh cũng cần thận trọng hơn khi trẻ dưới 5 tuổi được chẩn đoán là bị ADD. Ngộ độc chì và các rối loạn ngôn ngữ nên luôn luôn được xem xét trước và nhất thiết phải có đánh giá sự phát triển toàn diện. Trị liệu bằng thuốc với nhóm tuổi này thường không có tác dụng lâu và dễ bị nhiều tác dụng phụ.

Về ngắn hạn, ngoài việc quản lý thái độ hành vị và giáo dục, việc sử dụng thuốc phù hợp còn có thể cải thiện hành vi cho khoảng 90% trẻ. Trải nghiệm nhà trường tốt hơn và sự thành công trong việc học mang lại sự tự tin và lòng tự trọng cao hơn. Khi xét khía cạnh này, tình trạng này được cho là “có thể chữa trị được”. Tuy vậy y học chưa chứng minh được hiệu quả mang tính lâu dài của thuốc.

ADD là tình trạng lặp đi lặp lại, làm thay đổi tình cảnh và sự phát triển của trẻ, thế nên việc điều trị cần phải được đánh giá lại. Chính vì vậy mà việc định kỳ ngừng thuốc khi điều trị đối với hầu hết trẻ để đánh giá những nhu cầu thay đổi của trẻ là điều cần thiết.Hội chứng tăng động giảm chú ý

Chúng ta có đang làm hại con mình không?

Đây không phải là câu hỏi dễ trả lời. Việc chẩn đoán và điều trị trẻ một cách chính xác có thể giúp ích rất nhiều. Nhưng chẩn đoán nhầm có thể dẫn đến rủi ro khiến trẻ nhận phải sự điều trị không phù hợp và gây sai sót trong phân loại nhóm bệnh. Bậc cha mẹ, với vai trò là người bảo hộ cho trẻ, nên bảo đảm quá trình chẩn đoán tuân thủ các tiêu chuẩn đã được chấp nhận.

Phụ huynh cũng nên tham gia tích cực trong các nỗ lực quản lý thái độ hành vi và giáo dục, yêu cầu định kỳ đánh giá lại phương pháp điều trị và đừng bao giờ e ngại đặt câu hỏi và đưa ra ý kiến của mình. Hiệp hội Nhi khoa Hoa Kỳ (AAP) và Viện Hàn lâm tân thần học trẻ em và trẻ vị thành niên Hoa Kỳ (AACAP) không đưa ra hướng dẫn nào trong việc chẩn đoán trẻ dưới 6 tuổi. Dù vậy, tạp chí của hiệp hội y học Hoa Kỳ (JAMA) đã có báo cáo vào tháng 2/2000, cho thấy lượng thuốc gây tác động đến tâm thần đã được kê toa cho trẻ từ 2-4 tuổi tăng gấp 3 lần tính từ năm 1991-1995.

[inline_article id=61000]

Bậc phụ huynh phải không đồng ý cho bác sĩ chẩn đoán ADHD hoặc ADD và kê toa các loại thuốc điều chỉnh tâm thần cho trẻ chập chững đi. Trên hết, mặc dù các bác sĩ có thể là những chuyên gia về ADD, nhưng không ai rành rẽ một đứa trẻ hơn cha mẹ bé.

Linh Lan

Categories
Sự phát triển của trẻ Sức khỏe trẻ em Các vấn đề sức khỏe trẻ em khác

Xử trí khi trẻ bỏ giấc trưa và đột nhiên bé không chịu ngủ một mình

Khi trẻ bỏ giấc trưa

Theo thống kê, có khoảng 80% trẻ 2 tuổi vẫn ngủ trưa. Đến 3 tuổi, con số này giảm xuống còn khoảng 60%, nhưng có 1/4 trẻ 4 tuổi và thậm chí khoảng 10-15% trẻ 5 tuổi vẫn ngủ trưa mỗi ngày. Do thể chất mỗi trẻ khác biệt nên điều quan trọng là cha mẹ phải “đọc” được tín hiệu của trẻ chớ đừng áp đặt tuổi “đúng” hoặc theo cách “tốt nhất”.

Bảng tổng hợp dưới đây sẽ giúp bạn nhận ra các dấu hiệu cho thấy trẻ đã sẵn sàng để bỏ giấc ngủ trưa:

  • Tự tỉnh giấc trong một tâm trạng tốt.
  • Buồn ngủ vào ban đêm và duy trì giấc ngủ.
  • Ngủ khoảng 11 đến 12 tiếng một đêm.
  • Có hành vi tỉnh táo trong cả ngày, ngay cả khi không ngủ trưa.

“Cuộc chiến” để ép con bạn ngủ trưa càng mệt mỏi hơn khi bạn nghĩ trẻ luôn cần một giấc ngủ trưa mà bé không chịu ngủ. Và có phài trẻ luôn cần 1 giấc ngủ như thế?

1. Giai đoạn chuyển tiếp giờ ngủ trưa
Theo tiến sĩ Laura Jana, bác sĩ khoa nhi tại Omaha, Nebraska, nước Mỹ thì có một giai đoạn chuyển tiếp. Theo cô, trong khi nhiều trẻ vẫn ổn khi không ngủ trưa vài ngày thì có những trẻ sẽ mệt mỏi và trở nên cáu kỉnh. Một số trẻ dù đã quá 4 tuổi nhưng vẫn cần ngủ trưa để có sức khỏe tốt hơn.

Một số trẻ em, thường từ 2 tuổi, độ tuổi mà cha mẹ cho rằng không cần phải ngủ trưa, nhưng cơ thể bé thực chất vẫn cần hưởng lợi từ giấc ngủ ngắn này. Khi bỏ qua quá giấc trưa như vậy, trẻ dễ trở nên cáu kỉnh, mệt mỏi vào đầu giờ chiều.

Theo các chuyên gia, giai đoạn chuyển tiếp có thể kéo dài khoảng 6 tháng. Đây thật sự là khoảng thời gian dài có thể khiến các bậc cha mẹ cảm giác như tận 6 năm! Tuy vậy, bạn nên cho bé có một giấc trưa thường xuyên ngay sau bữa ăn, đây là lúc cơ thể có sự giảm nhiệt độ tư nhiên nên dễ buồn ngủ hơn. Lúc này, bạn hãy cùng con lên giường, đọc những truyện kể cho bé nghe, rồi ôm con vào lòng, mát-xa nhẹ hoặc xoa nhẹ vào lưng để làm dịu trẻ. Bạn đừng quên giảm ánh sáng, đóng các màn cửa, tắt ti-vi, dọn dẹp đồ chơi… Nếu bé không chịu ngủ trong vòng 45 phút, giấc trưa đã qua và bạn sẽ cần yêu cầu trẻ ngủ đêm sớm để đủ 11 đến 12 tiếng vào đêm hôm đó.

em_be_ngu
Cần cho trẻ ngủ đêm sớm cho đủ giấc nếu trẻ bỏ giấc ngủ trưa

2. Xử trí khi bé không chịu ngủ trưa

Nếu sau tất cả những cố gắng đó mà bé không chịu ngủ trưa, cha mẹ không nên xem đó là thái độ xấu. Thay vào đó, hãy xem đó là hành vi có thể đoán trước dù bạn có thể rất bực bội. Khi nhìn sự việc theo hướng này, bạn sẽ có thể lên kế hoạch và giải quyết hậu quả, chẳng hạn như cho trẻ đi ngủ sớm buổi tối.

Dù bé không chịu ngủ giấc trưa nhiều ngày liên tiếp, nhưng điều đó không có nghĩa là trẻ đã sẵn sàng để bỏ hẳn giấc trưa. Bạn cần xem xét liệu hành vi này có xảy ra thường xuyên hơn qua nhiều tuần liền hay không. Một vài trẻ cũng có thể tạm thời ngủ trưa lại sau một thời gian gián đoạn nếu bạn thấy trẻ thiếu tỉnh táo vào buổi chiều.

Khi bỏ hẳn giấc ngủ trưa, trẻ cũng cần một khoảng thời gian chuyển tiếp. Bạn hãy thử bắt đầu một thói quen cùng với trẻ trong thời gian này như dùng sách màu, câu đố và đồ chơi để con tự giải trí nhẹ nhàng. Bằng cách này, bạn cũng được nghỉ xả hơi.

Theo các chuyên gia, một giấc ngủ ngắn khoảng 20 phút là đủ tốt cho tất cả chúng ta. Đây là thời gian nghỉ ngơi vừa đủ, cho phép não bắt đầu tích hợp các dữ liệu vào bộ nhớ dài hạn và cung cấp năng lượng cho nửa sau của ngày. Vì vậy, một giấc ngủ trưa ở mọi lứa tuổi là điều được các chuyên gia thường khuyến khích.

3. Linh hoạt

Chìa khóa thực sự để đối phó với một đứa trẻ trong quá trình bỏ giấc trưa là phải linh hoạt với thời gian biểu. Nếu bé không chịu ngủ trưa, bạn nên cố gắng xoa dịu trẻ. Hãy điều chỉnh thời gian nghỉ trưa và để ý các dấu hiệu buồn ngủ của trẻ.

Bé không chịu ngủ 1 mình, mẹ phải “cương – nhu” kết hợp

Đừng lo lắng nếu con bạn đột nhiên không chịu ngủ 1 mình trong những năm đầu đời. Có nhiều lý do cho điều này, và đây là một số gợi ý thực tế để giúp bạn giải quyết vấn đề này một cách hiệu quả.

1. Con sợ bóng tối và muốn được quay vào phòng ngủ chung với ba mẹ

Trẻ từ chối để bạn tắt đèn ngủ và khóc khi bạn vẫn muốn thực hiện điều này.

bé không chịu ngủ
Càng lớn bé càng có nhiều lý do để không đi ngủ sớm

Để giúp con yên tâm ngủ một mình, đầu tiên, bạn có thể lắp một công tắc điều chỉnh độ sáng cho ánh sáng phòng ngủ của bé. Tức là cho phép bạn dần dần làm tối căn phòng nhiều hơn một chút mỗi đêm.

Thứ hai, bạn có thể ngồi với trẻ cho đến khi bé ngủ – mặc dù điều đó có thể sớm trở thành thói quen khó sửa.

2. Sau khi thức dậy vào nửa đêm, trẻ không thể ngủ lại được nữa

Bạn đang ngủ say thì đột nhiên cục cưng đang nằm bên cạnh mình, tỉnh táo và khuôn mặt thể hiện sự cô đơn. Bé nói rằng không thể ngủ lại và muốn được ở bên mẹ, được ăn món nào đó.

Lúc này, bạn đưa con trở lại giường, hôn trẻ một cách âu yếm và rời khỏi phòng. Kiên quyết từ chối khi bé đòi ăn, đòi chơi. Bạn nói rõ ràng với bé rằng đây không phải là thời gian để vui chơi và ăn uống. Bạn làm điều này mỗi lần bé thức dậy vào ban đêm cho đến khi bé ổn định tâm lý, ngủ ngon giấc.

3. Trẻ lo lắng về chuyện nho nhỏ nào đó. Chính điều này tác động đến giấc ngủ của bé khiến trẻ sợ phải ngủ một mình.

Trẻ vẫn đi ngủ trong khoảng thời gian quy định như mọi ngày mà không thể hiện bất kỳ sự khó chịu nào. Nhưng bạn có thể nghe thấy tiến động nho nhỏ từ trong phòng. Bé trở mình liên tục, thức giấc nhiều giờ sau đó. Điều này cũng tương tự như khi bạn có chuyện gì phải suy nghĩ, thức dậy vào nửa đêm và không muốn tự mình trở lại.

Bạn vào phòng và trò chuyện với bé rằng dù có chuyện đã xảy ra trong ngày chăng nữa thì cũng cần phải ngủ ngon ngày mai mới giải quyết tốt hơn được. Không có gì con phải quá lo lắng. Nhớ bảo con trẻ nằm trên giường khi bạn nói những điều này.

Ngày hôm sau, cha mẹ hãy suy nghĩ kỹ về những vấn đề có thể khiến bé mệt mỏi. Có thể chiều hôm trước bé đã gây lộn với bạn hàng xóm, hoặc ở trường mẫu giáo bị cô phạt hay chơi đùa quá trớn với anh/chị em của mình. Cố gắng làm những gì bạn có thể để hỗ trợ bé vượt qua căng thẳng để ngủ ngon giấc.

4. Cái gọi là nỗi sợ khi ngủ một mình thực ra chỉ là hành vi tìm kiếm sự chú ý từ cha mẹ của bé.

Trẻ không muốn bạn rời đi và để bé lại một mình trong phòng. Bé lý giải rất nhiều lý do về nỗi sợ hãi nhưng chỉ cần nghe tiếng bước chân mẹ quay trở lại là trẻ vui vẻ và muốn cha mẹ tham gia một trò chơi nho nhỏ nào đó ngay lập tức.

bé không chịu ngủ
Bé không chịu ngủ đôi khi chỉ là muốn tìm kiếm sự chú ý

Hãy cố gắng kiểm soát tình thân ngay lúc này. Ví dụ như cố gắng phớt lờ khi trẻ nhắn nhủ “Mẹ ơi, con không muốn ngủ một mình – và nếu bạn cảm thấy phải đi gặp hãy nói chuyện ngắn gọn, kết thúc nhanh để đưa bé đi vào giấc ngủ.

Ngoài ra, bạn nên dành cho bé sự chú ý đặc biệt mỗi buổi sáng thức dậy và nói rằng: “Mẹ cảm thấy rất vui và tự hào khi con có thể tự ngủ một mình. Con đã mạnh mẽ như một chú rồng rồi nè!”

Để trẻ có 1 giấc ngủ ngon, không có gì là quá khó. Bạn chỉ cần quan sát và chăm sóc trẻ đúng cách khi bé không chịu ngủ là con sẽ thích nghi với lịch sinh hoạt của mẹ “dàn xếp” ngay thôi!

Linh Lan

Categories
Sự phát triển của trẻ Sức khỏe trẻ em Triệu chứng và bệnh phổ biến

Trẻ bị bệnh có nên cho đi nhà trẻ?

Trẻ dễ lây bệnh khi đi nhà trẻ, mẫu giáo
Hầu hết các bậc cha mẹ sẽ đồng ý rằng nếu trẻ bị bệnh khi đi nhà trẻ thì ba mẹ nên cho bé ở nhà cho đến khi bé khỏe hẳn, không còn nguy cơ lây nhiễm nữa. Nghe thì có vẻ đơn giản nhưng thực tế không dễ dàng chút nào.

Nên lưu ý là nhiều căn bệnh dễ lây lan nhất trong vòng một hoặc hai ngày trước khi trẻ mang mầm bệnh thể hiện triệu chứng rõ ràng. Vì vậy, khi phát hiện con mình bị bệnh, rất có thể bé đã lây bệnh cho những trẻ khác trong lớp rồi. Ngoài ra, việc xác định được triệu chứng của bé có phải là bệnh truyền nhiễm không hề đơn giản. Khi bé nổi mẩn đỏ, liệu đó là dấu hiệu bé bị dị ứng hay là dấu hiệu của bệnh tật?

Hầu hết các nhà trẻ đều đưa ra danh sách những quy định để giúp các bậc cha mẹ và người chăm sóc trẻ có thể đưa ra quyết định liệu nên cho trẻ đi học hay là ở nhà. Nhưng đôi khi chính những quy định này lại gây nhầm lẫn với cả phụ huynh và thầy cô giáo. Các chuyên gia nhi khoa đã đưa ra một số hướng dẫn khi nào bạn nên giữ trẻ ở nhà và tất nhiên những điều này còn tùy thuộc vào các quy định của nhà trẻ nơi con bạn đang theo học.

Trẻ bị bệnh có nên cho đi nhà trẻ?
Mẹ nên đảm bảo sức khoẻ cho bé trước khi cho bé đi nhà trẻ

Khi nào nên để bé ở nhà?
Nêu giữ bé ở nhà nếu có bất cứ dấu hiệu nào sau đây:

  • Sốt, khó chịu, lờ đờ, khóc dai dẳng hoặc khó thở, tất cả có thể là dấu hiệu của một bệnh lý nào đó.
  • Một số bệnh về đường hô hấp trên như viêm tiểu phế quản hoặc cảm cúm, còn cảm lạnh thông thường chưa cần thiết phải giữ bé ở nhà.
  • Tiêu chảy: Bé đi tiêu chảy hoặc đi tiêu liên tục.
  • Phân của bé có lẫn máu hoặc có chứa chất nhầy, đây có thể là dấu hiệu bé bị nhiễm virus hoặc vi khuẩn, nên cho bé đi khám bác sĩ sớm.
  • Ói mửa.
  • Nổi mẩn đỏ: Đây là lý do để bạn giữ trẻ ở nhà khi không biết chắc chắn rằng nó có liên quan đến bệnh truyền nhiễm hay không. Nếu bé nổi mẩn đỏ không kèm theo sốt hay biểu hiện gì khác, bé vẫn có thể đi học bình thường nếu nhà trường cho phép vì lúc này có khả năng bé chỉ đơn thuần bị dị ứng với thực phẩm nào đó.

Khi nào các bệnh không còn lây nhiễm?

  • Bệnh thủy đậu: Con của bạn sẽ không còn lây nhiễm sang các trẻ khác một khi tất cả các mụn nước khô và đóng vảy.
  • Chốc lở: Trẻ bị bệnh da liễu này sẽ không còn lây nhiễm sau 24 giờ dùng thuốc kháng sinh.
  • Bệnh ghẻ: Sau khi được điều trị bằng thuốc diệt khuẩn tại chỗ, sẽ không còn khả năng lây nhiễm nữa.
  • Viêm kết mạc do vi khuẩn, còn gọi là đau mắt đỏ, và chảy mủ ở mắt: Bệnh này có thể không còn bị lây nhiễm sau 24 giờ dùng thuốc kháng sinh nhưng hầu hết các nơi giữ trẻ sẽ không cho phép bé bị chảy mủ mắt đi học. Tuy nhiên, với những trẻ bị đỏ mắt hay chảy nước mắt do dị ứng thì bệnh không lây nhiễm và bé nên đi nhà trẻ vì bệnh này lâu khỏi.
  • Viêm họng do vi khuẩn Streptococcus gây ra: thường không lây nhiễm sau 24 giờ dùng thuốc kháng sinh.
  • Lở miệng dẫn đến tình trạng chảy nước dãi liên tục: nên chờ cho đến khi bác sĩ kết luận rằng bé không bị truyền nhiễm trước khi cho bé trở lại nhà trẻ.
  • Bị chấy (chí): Con bạn có thể quay trở lại nhà trẻ sau khi bé đã được diệt chấy triệt để.

Ngoài việc giữ trẻ ở nhà khi bé bị bệnh, bạn nên giữ vệ sinh sạch sẽ cho bé để ngăn chặn sự lây nhiễm và thường xuyên rửa tay bé thật kỹ. Sau khi thay tã, hỉ mũi, phải làm sạch bất kỳ chất dịch nào của cơ thể như nước tiểu, phân, đờm… và trước khi chuẩn bị thức ăn cho bé thì việc này còn đặc biệt quan trọng hơn.

Categories
Sự phát triển của trẻ Sức khỏe trẻ em Triệu chứng và bệnh phổ biến

Dấu hiệu mất nước ở trẻ em và cách điều trị

Nếu mất nước ở thể nhẹ thì việc khắc phục không quá khó nhưng ở thể trung và nặng lại có khả năng đe dọa tính mạng của bé. Trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ dễ bị mất nước hơn người lớn và tốc độ mất nước của trẻ sơ sinh thường nhanh và nguy hiểm hơn. Vì vậy, mẹ cần lưu ý đề phòng những dấu hiệu mất nước ở trẻ.

1. Các triệu chứng, dấu hiệu mất nước ở trẻ

Bất cứ dấu hiệu nào sau đây ở trẻ đều cho thấy bé đang bị mất nước hoặc có nguy cơ bị mất nước.

Dấu hiệu trẻ mất nước ở thể nhẹ – trẻ thường mất nước khoảng dưới 3% cân nặng:

  • Da khô, lạnh.
  • Dễ kích động quấy khóc.
  • Môi và miệng khô, dính lại.
  • Thóp trước của trẻ sờ lõm hơn.
  • Khóc ít hoặc không có nước mắt.
  • Bé mệt mỏi như thiếu năng lượng.
  • Quấy khóc, buồn ngủ và chóng mặt.
  • Nước tiểu có màu đậm hơn và mùi nồng hơn bình thường.
  • Tiểu có thể hơi ít hơn bình thường; hơn 6-8giờ mà bé chưa đi tiểu.
  • Chưa có những dấu hiệu mất nước như mắt trũng, thóp lõm, da khô véo da chậm hồi phục lại trạng thái ban đầu; đòi uống nước liên tục.

Dấu hiệu mất nước nghiêm trọng ở trẻ:

  • Nôn mửa và đi ngoài nhiều hơn.
  • Không uống được, hoặc uống kém.
  • Không có tã ướt hoặc đi tiểu trong vòng tám giờ.
  • Lờ đờ, thiếu năng lượng (ngủ li bì và khó đánh thức).
  • Mắt trũng sâu, da khô nhăn, véo da trẻ phục hồi rất chậm
Dấu hiệu mất nước ở trẻ
Dấu hiệu mất nước ở trẻ: Môi và làn da khô

>> Mẹ xem thêm: Da trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ bị khô, bong tróc là thiếu chất gì?

2. Điều trị trẻ bị mất nước như thế nào?

Nếu ở trẻ có dấu hiệu mất nước nghiêm trọng, hãy đưa bé đến phòng cấp cứu ngay lập tức. Bé cần được truyền thêm chất lỏng thông qua tĩnh mạch càng sớm càng tốt cho đến khi tình trạng mất nước được cải thiện.

Bồi phụ dịch cho trẻ mất nước ở thể nhẹ

Nếu bé bị mất nước ở thể nhẹ, cha mẹ sẽ được hướng dẫn để cung cấp thêm chất lỏng cho bé.

Bé nhỏ hơn 3 tháng tuổi, bác sĩ sẽ khuyến khích bổ sung sữa mẹ hoặc sữa công thức. Mẹ sẽ tăng dần số lần cho bé bú bằng cách cho bé bú một lượng ít hơn và thường xuyên hơn so với bình thường.

Bé từ 3 tháng tuổi trở lên, bác sĩ có thể sẽ đề nghị cho bé dùng thêm chất điện giải ngoài sữa mẹ hoặc sữa công thức để bổ sung lượng nước, muối và chất điện giải mà cơ thể của bé đã bị mất đi. Chất lỏng điện giải này được bán rộng rãi trong hầu hết các hiệu thuốc.

Tùy vào cân nặng và tháng tuổi của bé mà bác sĩ sẽ hướng dẫn chính xác cho cha mẹ cách sử dụng chất lỏng điện giải.

Điều trị bé bị mất nước
Điều trị dấu hiệu mất nước ở trẻ

>> Mẹ xem thêm: Bù nước điện giải cho bé: bổ sung đúng cách để tránh tác dụng phụ

3. Cách phòng bệnh và dấu hiệu mất nước ở trẻ em

Nên cho bé uống nhiều nước, nhất là vào những ngày nắng nóng và khi bé bị bệnh.

Cho bú sữa mẹ hoặc sữa công thức đều đặn khi bé dưới 6 tháng tuổi. Mẹ có thể bổ sung thêm nước điện giải nếu cần cho đến khi bé ăn dặm được. Lúc này mẹ có thể tăng dần lượng nước uống cho bé.

Nếu con nhỏ hơn 6 tháng và mẹ lo ngại về khả năng mất nước của bé; không được cho bé uống nước mà không trao đổi trước với bác sĩ. Việc uống nước lúc này là chưa cần thiết và thậm chí có thể gây hại cho bé. Nước trái cây không phù hợp với trẻ sơ sinh dưới 6 tháng tuổi, vì không cung cấp dưỡng chất cần thiết cho bé vào giai đoạn này.

Nếu bé từ 6 tháng tuổi trở lên, mẹ không nên cho bé uống nhiều nước trái cây. Thay vào đó nên pha loãng với nước nhằm tăng lượng nước nạp vào cơ thể. Nếu bé uống 90 – 120ml nước trái cây một ngày, mẹ có thể pha loãng với nước thành 180 – 240ml chất lỏng. Các chuyên gia cũng khuyến cáo mẹ chỉ nên cho bé từ 1 – 6 tuổi uống 120 – 180ml nước trái cây mỗi ngày.

[inline_article id=265771]

Không được cho trẻ nhỏ ở mọi lứa tuổi uống nước ngọt có gas; nước trái cây thương mại; trà ngọt; cà phê; và một số loại trà thuốc thảo dược hoặc dịch truyền (không theo chỉ định bác sĩ) vì sẽ gây hại cho răng của bé và không tốt cho sức khỏe.

Categories
Sự phát triển của trẻ Sức khỏe trẻ em Suy dinh dưỡng

Làm gì khi con không hấp thu thức ăn?

Tại sao bé sụt cân dù ăn nhiều?
Chị Mai Khanh (Q.3) cho biết: “Bé nhà mình được 6 tháng tuổi, thời gian này bé biếng ăn quá, sợ con sụt ký nên lúc nào mình cũng chỉ lo chuyện ăn uống của con, riết mà muốn trầm cảm luôn”.

Chị Khanh chia sẻ: “Vì bé không chịu ăn nên mình phải cho con ăn mọi lúc mọi nơi, không chịu uống sữa thì mình tăng cường cho bé ăn cháo xay với thịt, tôm, cua,… cho đủ dưỡng chất. Thế mà cuối tháng đi cân vẫn sụt 3 lạng”.

Còn chị Thanh Thảo (Q.10) thì băn khoăn: “Nhóc nhà mình 8 tháng tuổi, ăn khỏe lắm, một ngày 3 bữa cháo, mỗi bữa chén rưỡi gần 2 chén. Ngoài ra thêm 5 bữa sữa, mỗi bữa cũng gần 200ml, rồi còn ăn phô-mai, váng sữa bổ sung, ấy thế mà hai tháng nay chẳng lên cân. Chả hiểu làm sao?”

Nguyên nhân
Theo bác sĩ Đào Yến Thủy – Trung tâm Dinh Dưỡng TP.HCM: “Đây là tình trạng trẻ không hấp thu thức ăn. Nguyên nhân là do sự tổn thương của ruột non, hoặc do trẻ còn nhỏ, chưa có đủ men tiêu hóa ở dạ dày, gan, mật, nhưng các bậc phụ huynh lại cho trẻ ăn quá nhiều, cả những chất khó tiêu. Vì thế, trẻ sẽ kém hấp thu thức ăn”.

Bác sĩ Thủy cho biết thêm: “Khi kém hấp thu thức ăn, trẻ sẽ dễ bị rối loạn tiêu hóa, có thể là đi phân sống, ăn nhiều nhưng vẫn gầy yếu. Hoặc dẫn đến tình trạng chướng bụng, đầy hơi và có thể biếng ăn hơn. Nếu tình trạng này kéo dài thì có thể gây ra tình trạng thiếu dinh dưỡng và thiếu máu ở trẻ”.

Bé sụt cân dù vẫn ăn ngon miệng?
Bé sụt cân dù vẫn ăn ngon miệng cho thấy khả năng hấp thu chất dinh dưỡng của bé đang gặp trục trặc

Cách xử lý
Cũng theo bác sĩ Đào Yến Thủy: “Các bậc phụ huynh khi có con trong tình trạng kém hấp thu thức ăn thì nên thay đổi khẩu phần ăn của trẻ, cần cho trẻ:

  • Ăn đủ số lượng cần thiết theo nhu cầu của trẻ, trẻ hoạt động nhiều mà ăn quá ít thì cũng không tăng cân. Vì vậy, cần cho trẻ ăn đủ số lượng theo nhu cầu của từng trẻ. Bên cạnh đó, cũng cần nhớ rằng, khả năng tiêu hóa, hấp thu thức ăn của từng trẻ khác nhau nên có thể sẽ đủ với trẻ này, nhưng lại thiếu so với trẻ kia. Nên gia giảm thức ăn để trẻ có sự tiêu hóa phù hợp.
  • Ăn đủ chất: Nếu chỉ ăn nhiều mà không đủ các chất đạm, béo… cần thiết thì trẻ cũng khó tăng cân. Nhưng nếu ăn quá nhiều thì trẻ cũng khó hấp thu hết.
  • Ăn đa dạng: Nếu chỉ ăn một loại thức ăn có thể sẽ làm cho cơ thể trẻ thiếu những chất khác từ những thức ăn khác và sẽ không có sự tăng trưởng toàn diện.
  • Ăn quá dư thừa: Ví dụ: với trẻ 6 tháng đang ở giai đoạn tập ăn dặm thì mỗi ngày chỉ nên ăn thêm ½ chén bột, còn chủ yếu vẫn là sữa. Còn trẻ 8 tháng thì chỉ nên ăn ngày 2 lần cháo, mỗi bữa ½ chén. Trong cháo có 1 muỗng canh thịt xay, 1 muỗng canh rau và 1 muỗng canh dầu ăn. Không nên ăn quá nhiều vì lúc này, trẻ chưa có đủ men tiêu hóa, dẫn dến việc trẻ không hấp thu được thức ăn”.

Đứng trước nỗi băn khoăn của nhiều phụ huynh khi cho rằng có nên mua thuốc cho trẻ uống để kích thích ăn uống cho bé, bác sĩ Đào Yến Thủy khuyên rằng: “Nếu muốn bổ sung men tiêu hóa cho trẻ để trẻ dễ hấp thu thức ăn thì chỉ nên cho trẻ ăn bổ sung thêm yaourt. Còn việc sử dụng thuốc thì chỉ sử dụng khi thật cần thiết và có sự kê đơn của bác sĩ”.

Hạ My

Categories
Sự phát triển của trẻ Sức khỏe trẻ em Các vấn đề sức khỏe trẻ em khác

Cách cho trẻ uống thuốc có hiệu quả: Trẻ không quấy khóc, không nôn

Dưới đây là một số cách để cha mẹ tự tin cho trẻ uống thuốc vừa hiệu quả vừa chống nôn.

1. Cách cho trẻ uống thuốc đúng cách

1.1 Trao đổi bác sĩ về loại thuốc sẽ cho bé uống

Nếu đó là thuốc được kê đơn, nên hỏi cụ thể thuốc đó chữa bệnh gì và thuốc có khả năng gây phản ứng gì, tìm hiểu xem thuốc sẽ phát huy tác dụng khi nào và đơn thuốc đó nên kéo dài bao lâu. Liệu thuốc đó có phản ứng với những thuốc khác mà bé đang uống không?

Một số loại thuốc phải uống sau khi ăn, ngược lại, cũng có loại phải uống trước khi ăn. Những loại khác lại thấm vào cơ thể hiệu quả hơn nếu chúng được dùng chung với những loại thực phẩm nhất định.

Bạn cũng nên kể cho bác sĩ và dược sĩ biết về những thành phần có thể khiến bé bị dị ứng.

1.2 Cách cho trẻ uống thuốc: Uống thuốc đúng liều

Cha mẹ lưu ý đọc kỹ hướng dẫn sử dụng khi mua một loại thuốc mới, khi cho bé dùng thuốc và trong lúc đo lường thuốc cho bé. Theo sát hướng dẫn trên bao bì để đảm bảo rằng bé uống thuốc đúng liều theo tuổi tác và cân nặng của bé. Nếu không hiểu những hướng dẫn đó, nên gọi cho bác sĩ hoặc dược sĩ.

1.3 Sử dụng dụng cụ đo lượng thuốc đúng chuẩn

Cách cho trẻ uống thuốc

Một trong những cách để đảm bảo cho trẻ uống thuốc đúng lượng là sử dụng đúng công cụ. Cha mẹ nên sử dụng thìa đo lường, dụng cụ nhỏ thuốc, tách đo lường hoặc ống tiêm hở miệng được thiết kế đặc biệt để giúp bạn đo lường và chia thuốc đúng liều.

Cách tốt nhất là cha mẹ nên sử dụng một ống tiêm hở miệng với những vạch đo lường khác nhau. Đối với em bé, ống tiêm có hiệu quả hơn thìa vì cha mẹ có thể đảm bảo cho hết thuốc vào miệng bé và thuốc chảy xuống cổ họng bé.

1.4 Cách cho trẻ uống thuốc: Thời gian là quan trọng nhất

Nên đọc nhãn cẩn thận để xem bạn nên cho bé uống thuốc bao nhiêu lần một ngày. Nếu trên nhãn ghi “ba lần một ngày”, cho bé uống ba lần vào những lúc bé thức, bạn không phải đánh thức bé dậy để bắt uống thuốc. Ngược lại, nếu hướng dẫn nói “mỗi 6 tiếng”, bạn sẽ phải tìm hiểu xem điều đó có nghĩa là bé cần uống thuốc theo giờ đồng hồ, giờ thức giấc hay giờ ngủ.

Nếu đó là thuốc được kê đơn thì nên hỏi bác sĩ kê đơn thuốc đó. Nếu đó là thuốc mua tại quầy thuốc thì phải hỏi dược sĩ. Nhớ bám sát hướng dẫn về việc nên cho bé uống thuốc lúc no hay lúc đói và nên tránh cho bé ăn những thực phẩm gì trong quá trình dùng thuốc.

1.5 Cách cho trẻ uống thuốc dễ dàng: Thêm hương vị vào thuốc

Bé có thể không chịu uống thuốc, đặc biệt khi thuốc có vị không ngon. Trong trường hợp này, cha mẹ có thể hỏi bác sĩ về một loại thuốc hỗn hợp có vị. Loại này có thể khiến cho thuốc có nhiều mùi vị khác nhau, để khiến thuốc có vị ngon hơn.

Nếu bé đã đủ lớn để ăn thức ăn đặc hơn, giải pháp của bạn là có thể xin bác sĩ cho bé thuốc viên. Như thế bạn có thể nghiền thuốc ra và trộn thuốc vào một ít sữa chua hoặc táo nghiền nhuyễn.

Không nên dụ bé uống bằng cách gọi thuốc là “kẹo”. Nếu bằng một cách nào đó mà bé vớ được chai thuốc, bé có thể quyết định tự mình uống hết chai.

1.6 Giải thích sự quan trọng của thuốc cho trẻ 

Đối với những trẻ đủ lớn để hiểu vấn đề, hãy giải thích cho trẻ biết vì sao chúng cần uống thuốc. Giải thích thuốc sẽ giúp trẻ như thế nào. Chuẩn bị trước cho trẻ. Nếu có một sự lựa chọn về hương vị, hãy để trẻ chọn. Đôi khi việc chơi “trò chơi bác sĩ” sẽ giúp ích cho trẻ. Hãy để trẻ chơi trò cho búp bê hoặc thú nhồi bông uống thuốc.

1.7 Cách cho trẻ uống thuốc dễ dàng: Trao cho trẻ một số quyền kiểm soát

Khi bị ốm, con thường bị mất cảm giác và dễ khó chịu. Nên trao cho con quyền quyết định uống thuốc như thế nào, lấy thuốc ở đâu, uống trước hoặc sau ăn để giúp con thoải mái hơn.

1.8 Thưởng cho con khi con uống thuốc xong

Cách cho trẻ uống thuốc

Một trong những cách cho trẻ uống thuốc hiệu quả là dỗ ngọt con sẽ cho con ăn món này, dẫn con đi đâu đó chơi nếu uống thuốc. Đối với những trẻ cứng đầu nhất thì chiêu này vô cùng hiệu quả.

2. Cách cho trẻ sơ sinh uống thuốc không bị nôn

2.1 Chia nhỏ liều khi trẻ khó uống thuốc

Phụ huynh nên tham khảo cách cho trẻ sơ sinh uống thuốc nhờ chia nhỏ liều lượng. Đối với trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ việc uống thuốc rất khó khăn, đặc biệt với các loại thuốc có vị đắng. Cùng lúc đưa vào miệng bé lượng lớn thuốc sẽ khiến trẻ có phản ứng nôn. Do đó phụ huynh có thể áp dụng chiến thuật chia nhỏ nhiều lần uống để trẻ dễ tiếp nhận hơn, tránh tình trạng nôn ói hết thuốc. Tuy nhiên, phụ huynh nên lưu ý, mỗi lần uống thuốc không nên kéo dài quá 20 phút, vì kéo dài thời gian quá lâu cũng khiến bé nảy sinh tâm lý sợ hãi.

2.2 Sử dụng nhiều cách khác nhau để dụ trẻ uống thuốc

dùng nhiều cách

Đối với trẻ sơ sinh, việc cho trẻ uống thuốc đúng cách rất quan trọng. Không được bóp mũi, đè đổ thuốc sẽ gây ảnh hưởng tâm lý cho trẻ. Trẻ nhỏ cần dẫn dụ để trẻ tự há miệng rồi nhanh chóng dùng thìa đưa thuốc vào miệng. Trẻ lớn trên 2 tuổi phụ huynh cần giải thích cho con hiểu tác dụng việc uống thuốc giúp bé khỏe mạnh.

Đối với trẻ sơ sinh có thể sử dụng các vật dụng thu hút trẻ như gấu bông, lắc nhạc để thu hút trẻ sau đó đưa thuốc vào miệng bé. Khi bé phản ứng khóc, nôn ói, cần thời gian vỗ về, ôm ấp trấn tĩnh bé ổn định tinh thần sau đó mới tiếp tục cho uống.

Nếu thử cho trẻ uống thuốc bằng thìa thất bại thì phải chuyển qua sử dụng xilanh hay dụng cụ ống bón thuốc.

2.3 Cách cho trẻ sơ sinh uống thuốc không bị nôn: Đặt thuốc vào miệng đúng cách

Vị giác của chúng ta tập trung ở phía trước và trung tâm của lưỡi, do đó nếu phụ huynh đưa thìa thuốc vào phần trước lưỡi trẻ lập tức phản ứng khóc, phun thuốc ra ngoài. Tuy nhiên, nếu phụ huynh đặt sâu thì thuốc vào quá ⅔ lưỡi và đè nhẹ lưỡi xuống rồi đổ thuốc vào miệng bé thì bé sau đó từ từ rút thìa ra ngoài thì sẽ giúp bé nuốt thuốc “dễ dàng như ăn kẹo”.

3. Một số điểm cần ghi nhớ trong cách cho trẻ uống thuốc

  • Kiểm tra các con số trong hướng dẫn thật cẩn thận: Việc này để tránh cho bé gấp đôi liều hoặc chỉ một nửa liều bé cần vì khi đang vội. Cha mẹ rất dễ nhìn nhầm “1/2” thành “2”.
  • Cần biết cân nặng của bé: Một số liều thuốc dựa vào cân nặng hoặc cân nặng và tuổi tác, vì vậy, ghi cân nặng của bé ra một tờ giấy và bỏ vào tủ thuốc có thể giúp ích cho bạn. Nên dùng con số mà con có trong lần khám bệnh gần nhất. Bế bé cùng cân với bạn và sau đó trừ đi cân nặng của bạn sẽ được cân nặng của bé.
  • Lắc đều thuốc trước khi cho bé uống: nếu trên hướng dẫn sử dụng khuyên bạn làm thế. Bằng cách đó, tất cả các thành phần được trộn đều với nhau, vì thế bé sẽ không nhận được nhiều quá hoặc ít quá những thành phần đó.
  • Đừng nhầm lẫn giữa thìa cà phê và thìa súp
  • Đừng nên áng chừng: Cha  không nên ước lượng bằng cách đoán chừng, nên dùng muỗng đo lường trong trường hợp này và sử dụng ống tiêm hoặc đồ nhỏ thuốc đã chia hiệu chuẩn thích hợp vào lần tới. Nhớ rằng: 1ml = 1cc và 1 thìa cà phê = 5cc.
  • Không bao giờ cho bé uống hơn liều lượng chỉ định trên nhãn hoặc trong hướng dẫn. Thậm chí nếu bé có bị cảm lạnh nặng, viêm tai, viêm họng hoặc sốt, nhiều thuốc hơn không hẳn là tốt hơn. Liều lượng được dựa vào số lượng thuốc an toàn cho bé chứ không dựa vào bé bệnh nặng như thế nào.

[inline_article id=270506]

Categories
Sự phát triển của trẻ Sức khỏe trẻ em Các vấn đề sức khỏe trẻ em khác

Cách cho trẻ uống thuốc: Uống đúng liều (Phần 2)

Uống thuốc đúng liều
70% ba mẹ gặp khó khăn để ước lượng xem nên cho bé uống bao nhiêu thuốc là đủ. Vì thế, nếu nhãn thuốc không hướng dẫn rõ ràng thì bạn có thể hỏi ý kiến của bác sĩ hoặc dược sĩ.

Các nghiên cứu cho thấy chỉ 40% trong số 100 người chăm sóc người bệnh, bao gồm cả ba mẹ, có thể cho bé uống thuốc đúng liều lượng và chỉ 43% có thể đo lượng thuốc một cách chính xác. Nhìn chung, chỉ có khoảng 30% có thể vừa xác định đúng liều và đo lường đúng liều cho bé.

Cách cho trẻ uống thuốc: Uống đúng liều (Phần 2)
Tính toán liều lượng cẩn thận khi cho trẻ uống thuốc

Làm sao bạn có thể chắc bé đang uống thuốc đúng liều lượng bé cần? Lưu ý đọc kỹ hướng dẫn sử dụng khi bạn mua một loại thuốc mới, khi cho bé dùng thuốc và trong lúc đo lường thuốc cho bé. Theo sát hướng dẫn trên bao bì để đảm bảo rằng bé uống thuốc đúng liều theo tuổi tác và cân nặng của bé. Nếu bạn không hiểu những hướng dẫn đó, nên gọi cho bác sĩ hoặc dược sĩ.

Một số điểm cần ghi nhớ
Kiểm tra các con số trong hướng dẫn thật cẩn thận để tránh cho bé gấp đôi liều hoặc chỉ một nửa liều bé cần vì khi đang vội, bạn rất dễ nhìn nhầm “1/2” thành “2”. Nên đọc hướng dẫn và đo lượng thuốc ở nơi có ánh sáng tốt, lưu ý rằng một số đơn thuốc áp dụng đối với em bé như acetaminophen dành cho trẻ sơ sinh cần được cô đặc và không dùng thuốc này cho những bé lớn hơn với liều thường dùng cho bé sơ sinh.

Cần biết cân nặng của bé. Một số liều thuốc dựa vào cân nặng hoặc cân nặng và tuổi tác, vì vậy, ghi cân nặng của bé ra một tờ giấy và bỏ vào tủ thuốc có thể giúp ích cho bạn. Đừng lo lắng nếu số liệu gần đây nhất bạn có đã cách đó vài tuần, nên dùng con số mà con có trong lần khám bệnh gần nhất. Bế bé cùng cân với bạn và sau đó trừ đi cân nặng của bạn sẽ được cân nặng của bé.

Lắc đều thuốc trước khi cho bé uống nếu trên hướng dẫn sử dụng khuyên bạn làm thế. Bằng cách đó tất cả các thành phần được trộn đều với nhau, vì thế bé sẽ không nhận được nhiều quá hoặc ít quá những thành phần đó.

Đừng nhầm lẫn giữa muỗng cà phê và muỗng canh. Hầu như không có loại thuốc nào mà bé sẽ cần đến một muỗng canh đầy mà thường chỉ đo bằng muỗng cà phê.

Đừng nên áng chừng. Nếu liều thuốc được khuyến nghị là 2 muỗng cà phê nhưng ống tiêm hoặc đồ nhỏ thuốc của bạn không có thước đo lường cho muỗng cà phê, bạn không nên ước lượng bằng cách đoán chừng, nên dùng muỗng đo lường trong trường hợp này và sử dụng ống tiêm hoặc đồ nhỏ thuốc đã chia hiệu chuẩn thích hợp vào lần tới. Nhớ rằng: 1ml = 1cc và 1 muỗng cà phê = 5cc.

Không bao giờ cho bé uống hơn liều lượng chỉ định trên nhãn hoặc trong hướng dẫn. Thậm chí nếu bé có bị cảm lạnh nặng, viêm tai, viêm họng hoặc sốt, nhiều thuốc hơn không hẳn là tốt hơn. Liều lượng được dựa vào số lượng thuốc an toàn cho bé chứ không dựa vào bé bệnh nặng như thế nào.

Nếu bạn nhầm lẫn và cho bé dùng hơi nhiều thuốc cũng không chắc là sẽ gây ra tổn hại gì cho bé nhưng nên kiểm tra với bác sĩ để an tâm hơn.

Nếu vì một lý do gì đó mà bé không thể hoặc sẽ không uống thuốc đúng liều, có thể vì bé sẽ ói và không thể giữ thuốc trong người, cần báo cho bác sĩ biết. Bác sĩ có thể chọn phương pháp khác, bằng cách chích hoặc nhét hậu hôn hoặc trong tĩnh mạch, để đảm bảo có được lượng thuốc bé cần.

Cuối cùng, không dùng đơn thuốc của bé khác áp dụng cho con bạn, một đơn thuốc cũ hoặc aspirin có thể gây ra một căn bệnh nặng hơn gọi là triệu chứng Reye.

Categories
Sự phát triển của trẻ Tiêm phòng Sức khỏe trẻ em

Chủng ngừa cho trẻ: Vắc-xin hoạt động như thế nào?

Tiêm phòng hay chủng ngừa có tác dụng bảo vệ trẻ khỏi những căn bệnh nghiêm trọng từ bại liệt, uốn ván đến sởi, quai bị.

Chủng ngừa cho trẻ: Vắc-xin hoạt động như thế nào?
Đưa trẻ đi khám định kì để phòng ngừa các bệnh cho trẻ

Nhiều ý kiến cho rằng đó là hoạt động quan trọng nhất trong những lần kiểm tra sức khỏe định kỳ cho trẻ em. Bạn có thể tham khảo ứng dụng lịch tiêm phòng chủng ngừa cho bé của Marry Baby để theo dõi và đưa bé đi chủng ngừa những loại vắc-xin thích hợp trong từng giai đoạn.

Vắc-xin chủng ngừa hoạt động như thế nào?
Vắc-xin chủng ngừa có chứa vi trùng hoặc vi rút gây ra một bệnh nào đó nhưng các vi trùng hoặc vi rút này đã bị làm yếu đi hoặc đã chết. Khi chúng được tiêm hoặc uống thì hệ miễn dịch sẽ tấn công chúng và kích thích cơ thể tạo ra kháng thể.

Khi đã được tạo ra, các kháng thể sẽ tiếp tục tồn tại trong cơ thể và sẵn sàng chống lại bệnh tật. Ví dụ nếu dịch ho gà bùng nổ trong khu vực bạn sinh sống thì một đứa trẻ được chủng ngừa sẽ có xác suất mắc bệnh thấp hơn so với một trẻ chưa được chủng ngừa.

Categories
Sự phát triển của trẻ Tiêm phòng Sức khỏe trẻ em

Tiêm phòng vắc xin an toàn cho trẻ

Lo lắng về tiêm chủng ngừa vacxin viêm gan B?

Trao đổi với Bác sĩ Trần Nguyên Khôi, chuyên khoa Cấp I Nhi, bệnh viện Nhi Đồng II chúng tôi được biết từ năm 2007 Bộ Y Tế đã chính thức đưa mũi tiêm chủng ngừa virut viêm gan siêu vi B vào chương trình Tiêm Chủng Mở Rộng (TCMR), bắt buộc và miễn phí, ngay khi trẻ sinh ra cùng với mũi tiêm  BCG phòng ngừa Lao.

”Chủng ngừa viêm gan siêu vi B được đưa vào chương trình TCMR theo khuyến nghị của Tổ chức y tế thế giới (WHO) là vì tỷ lệ nhiễm bệnh này ở các nước đang phát triển – điển hình ở châu Á rất cao so với các nước phương Tây. Tại Việt Nam tỉ lệ người nhiễm virut viêm gan siêu vi B chiếm 20% dân số và tới 10 % các bà mẹ mang bầu.

Cũng theo khuyến cáo của WHO, mũi tiêm ngừa đầu tiên trong vòng 24 tiếng sẽ tạo kháng thể mạnh nhất cho trẻ, với tỉ lệ 90-95% sau khi trẻ sinh ra không bị mẹ truyền bệnh, và có thể ngăn ngừa được những biến chứng về sau như viêm gan mãn, xơ gan và ung thư gan.” Bác sĩ cho biết.

Việc tiêm phòng này đã góp phần giảm tỉ lệ nhiễm virus viêm gan B ở trẻ em dưới 5 tuổi từ 15-20% vào năm 1990 xuống còn 2% vào năm 2010.

Vắc xin viêm gan B, thực tế là một trong những loại an toàn nhất và ít phản ứng phụ nhất vì là vắc xin tinh chế. Tuy nhiên do thời điểm tiêm chủng ngừa trong vòng 24 tiếng sau sinh, (trong khi các vắc xin khác như  uốn ván, ho gà, bại liệt được tiêm sau 2 tháng) tại thời điểm này cơ thể trẻ mới sinh còn non nớt, chưa có sức đề kháng và còn tiềm ẩn những bệnh lý khó có thể phát hiện ngay, dẫn đến nguy sốc phản vệ trước những chất lạ đưa vào cơ thể.

Vậy sốc phản vệ là gì?

Bác sĩ cũng cho biết thêm “Sốc phản vệ là một phản ứng dị ứng đặc biệt nghiêm trọng có thể đe dọa trực tiếp đến tính mạng trẻ, xảy ra khi cơ thể của trẻ nhạy cảm quá mức với một chất gây dị ứng mà trẻ tiếp xúc hay được tiêm vào người.

Triệu chứng thường thấy của trẻ  khi bị sốc phản vệ là da xanh xao tím tái, mạch nhanh, khó thở, cơ thể co gồng, môi nhợt,  nổi mẩn.

Hiện tượng xảy ra trong khoảng thời gian ngắn – vài phút sau khi trẻ được tiêm, khi hiện tượng này xảy ra, toàn bộ cơ thể của bé sẽ bị ảnh hưởng, sản sinh ra các hóa chất để loại trừ chất dị ứng khiến trẻ bị sốc và đe dọa đến tính mạng trẻ. “

Mẹ cần lưu ý gì khi tiêm phòng cho trẻ?

“Điểm quan trọng nhất trong quy trình tiêm phòng là trẻ phải được bác sĩ chuyên khoa nhi thăm khám kỹ, nếu trẻ có biểu hiện sức khỏe tốt  và đủ điều kiện để tiêm chủng ngừa (Trẻ có đủ cân nặng, có biểu hiện bệnh lý bất thường, trẻ ăn khỏe hay không….)” Bác sĩ cho biết.

Đặc biệt không đưa trẻ đi tiêm nếu trẻ bị ốm sốt, hay thể trạng còn ốm yếu. Mẹ cũng không nên cho bé bú quá no hoặc quá đói trước khi tiêm.

Trẻ sau khi được tiêm chủng ngừa phải lưu lại tại phòng tối thiểu 30 phút để theo dõi biểu hiện nhằm can thiệp kịp thời nếu xảy ra tình trạng phản ứng và sốc với thuốc.

Đối với trẻ em đã có hiện  tượng sốc phản vệ nhẹ với lần tiêm đầu thì những lần tiêm tiếp theo, cha mẹ cần thông báo điều này với bác sĩ chuyên khoa để đưa ra một phác đồ tiêm hợp lý, hiệu quả, an toàn cho trẻ.

Nguyên nhân phổ biến nhất của sốc phản vệ ở trẻ sơ sinh và trẻ em là qua thực phẩm , chẳng hạn như bé ăn đậu phộng , các loại hạt khác, sữa, cá, động vật có vỏ hoặc trứng; và qua thuốc như thuốc kháng sinh, ong bắp cày đốt, cao su… Số ít mới bị sốc phản vệ khi tiêm phòng và trường hợp của 3 bé ở Quảng Trị rơi vào thiểu số này.