Năm đầu đời của bé sẽ đầy ắp những cột mốc thú vị. Để mang đến cho con một khởi đầu hoàn hảo, hãy tìm hiểu ngay việc nuôi con bằng sữa mẹ, dinh dưỡng cho bé đến các mẹo chăm sóc con hàng ngày.
Bởi theo y khoa, hiện tượng bé ngủ mở mắt là hoàn toàn vô hại và cũng không phải là bệnh tật gì cả. Mẹ có thể nghĩ rằng đó là hành vi không bình thường, nhưng thực ra, nhiều đứa trẻ vẫn có giấc ngủ rất ngon ngay cả khi mắt vẫn mở. Hiện tượng này thường gặp ở trẻ trong giai đoạn đầu đời, nhất là vào độ tuổi từ 12-18 tháng.
Hiện tượng ngủ mắt vẫn mở tương đối phổ biến ở nhiều trẻ sơ sinh
Vẫn chưa có nghiên cứu nào có thể lý giải chính xác được tại sao trẻ ngủ mà mắt vẫn mở. Một số bác sĩ nhi khoa cho rằng, hiện tượng này xảy ra trong quá trình giấc ngủ REM. Thông thường, chúng ta trải qua 2 dạng giấc ngủ khác nhau, đó là giấc ngủ chuyển động mắt nhanh hay giai đoạn mơ – REM và giấc ngủ không mơ – non REM.
Có thể do giấc ngủ REM ở trẻ sơ sinh thường dài hơn người lớn và nó bao gồm khoảng 50% tổng thời gian ngủ nên bên cạnh việc chuyển động mắt nhanh, trẻ sẽ có thêm hiện tượng ngủ mà mắt vẫn chưa nhắm.
[inline_article id=104954]
Khi nào mẹ nên lo lắng?
Nếu thấy việc bé mở mắt khi ngủ làm bạn lo sợ, lúc con đã chìm sâu vào giấc ngủ, mẹ hãy dùng tay nhẹ nhàng khép mí mắt bé lại cho đến khi mắt nhắm hoàn toàn. Không nên lo lắng hay căng thẳng thái quá mà hãy yên tâm rằng đó là hành vi tương đối phổ biến ở nhiều trẻ.
Tuy nhiên, mẹ cũng nên trao đổi với bác sĩ nếu bé ngủ mở mắt trong nhiều giờ liền hoặc thường xuyên như vậy khi bé trên 18 tháng tuổi. Vì trong một vài trường hợp, bé có thể bị tật bẩm sinh ở phần đuôi mắt khiến không thể nhắm mắt bình thường được. Đôi khi nguyên nhân của hiện tượng này lại là do di truyền.
Thêm 1 trường hợp rất hiếm gặp và chỉ xảy ra với những lớn, đó có thể là dấu hiệu không tốt về sức khỏe như tổn thương dây thần kinh mặt, các bệnh về tuyến giáp hay khối u nào đó. Lúc này, cần phải trao đổi với các chuyên gia y tế để hiểu rõ hơn và có cách chữa trị phù hợp.
Mẹ và bố thích đi bằng máy bay, nhưng còn bé thì sao?
Tuy đã trở nên phổ biến hơn nhưng với nhiều người lớn, di chuyển bằng máy bay cũng gây không ít trở ngại. Vì vậy, rất nhiều mẹ lo lắng, liệu trẻ em đi máy bay có an toàn và thoải mái? Cần chuẩn bị những gì cho chuyến bay đầu tiên của bé? Đừng bỏ lỡ những thông tin quan trọng sau, các mẹ nhé!
Mẹ và bố thích đi bằng máy bay, nhưng còn bé thì sao?
1/ Bé đi máy bay, khi nào thì được?
Hầu hết các chuyên gia y tế đều không khuyến khích việc cho bé đi máy bay ngay sau khi sinh. Hãng hàng không quốc gia Việt Nam (Vietnam airlines) và nhiều hãng máy bay khác ở Việt Nam cũng chỉ chấp nhận vận chuyển những trẻ đã đủ 2 tuần tuổi trở lên. Nhưng tốt nhất, mẹ chỉ nên cho bé đi máy bay khi con đã được 2-3 tháng tuổi. Bởi trẻ mới sinh thường có sức đề kháng kém, rất dễ trở thành đối tượng tấn công của các loại vi khuẩn. Trong trường hợp phải đi máy bay trước độ tuổi khuyến cáo, mẹ nên đưa bé đi kiểm tra sức khỏe trước chuyến bay 1 tuần để đảm bảo.
2/ Trẻ em đi máy bay có bị ảnh hưởng sức khỏe?
Theo các chuyên gia y tế, ngay cả với trẻ sơ sinh, việc di chuyển bằng máy bay cũng hoàn toàn không gây ảnh hưởng đến sức khỏe. Tuy nhiên, do sự thay đổi áp suất cabin trong chuyến bay có thể khiến bé bị đau tai khi cất cánh hoặc hạ cánh. Để hạn chế tình trạng này, mẹ có thể cho bé bú bình hoặc ngậm núm vú trong 2 thời điểm “nhạy cảm” này.
Bên cạnh vấn đề về tai, các chuyên gia cũng lo lắng vấn đề hô hấp của các bé trong khi bay. Vì càng lên cao, không khí càng loãng nên các bé có tiền sử bệnh hô hấp sẽ cần được bổ sung thêm ô-xy. Thậm chí, theo khuyến cáo của các chuyên gia, những bé sinh non hoặc có bệnh phổi nên trì hoãn lần bay đầu tiên của mình cho đến sinh nhật đầu tiên.
3/ Trẻ em đi máy bay cần giấy tờ gì?
Phần lớn các hãng hàng không sẽ yêu cầu giấy khai sinh bản chính hoặc bản sao có công chứng hoặc giấy chứng sinh với những bé dưới 1 tháng tuổi. Khi book vé cho bé, mẹ cũng cần cung cấp đầy đủ thông tin như họ tên, ngày tháng năm sinh. Với những chuyến bay quốc tế, mẹ cần mang theo hộ chiếu của mình và bé.
Một số hãng máy bay như Jestar có giới hạn số trẻ trên từng chuyến bay. Cụ thể, mỗi chuyến bay hãng này chỉ chở không quá 16 trẻ em. Vì vậy, mẹ nên chủ động book vé sớm cho bé, tránh trường hợp hết chỗ phải đi một chuyến khác.
4/ Giúp con dễ chịu hơn khi bay
Để giúp bé “yên vị” trong suốt chuyến bay, mẹ nên mang theo đồ chơi hoặc những vật dụng yêu thích của bé. Những vật dụng này sẽ khiến bé bận rộn và không quậy phá khi bay. Hơn nữa, chúng cũng hữu ích để dỗ dành bé khi con gặp phải điều gì khó chịu.
Ngoài ra, mẹ cũng nên chuẩn bị bột sữa, đồ ăn dặm hoặc trái cây cho bé. Tuy nhiên, nên kiểm tra luật quy định của từng hãng hàng không để tránh mang quá số lượng cho phép.
Vậy đâu là thời điểm thích hợp để cai núm vú giả cho bé? Cùng MarryBaby tìm hiểu thêm về vấn đề này nhé!
1/ Những bất lợi khi cai núm vú giả trễ
– Tăng nguy cơ nhiễm trùng tai: Núm vú giả làm tăng nguy cơ viêm nhiễm tai giữa ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ. Tuy nhiên, bạn vẫn có thể cho bé sử dụng núm vú giả cho đến khi được 6 tháng tuổi vì ở độ tuổi này trẻ có rất ít nguy cơ bị viêm tai giữa. Đồng thời, đây là thời gian nguy cơ đột tử trong lúc ngủ cao nhất và bé đang rất hứng thú với việc ngậm ti giả.
Nhưng dùng núm vú giả thường xuyên có thể là nguyên nhân của chứng bệnh viêm tai giữa sau khi bé lớn hơn. Một nghiên cứu cho thấy rằng, những bé đã ngưng sử dụng núm vú giả sau 6 tháng tuổi có số ca viêm tai thấp hơn 1/3 so với các trường hợp vẫn tiếp tục thói quen này.
Cai núm vú giả kịp thời giúp trẻ tránh được ảnh hưởng không tốt về sức khoẻ và sự phát triển
– Gây rắc rối cho răng miệng: Cho bé dùng núm vú giả trong 1 năm đầu đời sẽ không làm ảnh hưởng quá lớn đến cấu tạo hàm cũng như sự phát triển răng miệng. Tuy nhiên, nếu duy trì thói quen ngậm núm vú giả trong một thời gian dài, sẽ có ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của răng, tăng nguy cơ răng của bé bị mọc xiên xẹo, lệch khớp cắn, răng hàm dưới bị chìa ra, hàm răng không khít.
– Cản trở phát triển ngôn ngữ: Một số chuyên gia cho rằng, núm vú giả có thể ngăn cản đến sự phát triển ngôn ngữ. Bởi vào thời điểm bắt đầu tập nói, tập phát âm, nếu trẻ cứ “bận rộn” với một chiếc ti giả trong miệng, sẽ làm biếng nói cũng như phát âm không chuẩn.
[inline_article id=104507]
2/ Khi nào cần cai núm vú giả cho bé?
Theo các chuyên gia của Học viện Nhi khoa Mỹ, sau 6 tháng, những hữu ích của việc cho bé ngậm núm vú giả giảm đi, thay thế vào đó là nhiều ảnh hưởng không tốt như tăng nguy cơ nhiễm trùng tai, gây rắc rối cho răng miệng, phát triển ngôn ngữ,… Nên 6 -12 tháng là thời điểm tốt nhất để bắt đầu hạn chế và cai núm vú giả, đặc biệt với những trẻ dễ bị nhiễm trùng tai.
Nhưng đó cũng không phải là quy tắc quá cứng nhắc. Đối với một số trẻ, việc ngậm núm vú giả có thể giúp giảm căng thẳng, thích nghi với tình huống, thách thức mới như bắt đầu đi nhà trẻ, tham gia một chuyến đi dài,.. hoặc nếu trẻ cảm thấy cực kỳ thoải mái, hứng thú khi dùng núm vú giả thì bố mẹ có thể xem xét cho bé tiếp tục sử dụng thêm một thời gian nữa. Tuy nhiên, không nên để quá trễ, qua độ tuổi 3-4.
Và dẫu sao đi nữa, phụ huynh cũng nên cân nhắc, xem xét giúp bé tạm biệt “người bạn” đặc biệt này vào thời điểm thích hợp càng sớm càng tốt. Bởi ngoài những ảnh hưởng không mong muốn thì “nghiện” ti giả rất khó cai nếu để trẻ dùng trong thời gian dài. Nếu bé không tự mình từ bỏ, bố mẹ bằng cách nào đó nên giúp bé nói lời tạm biệt khi núm vú giả không còn là “bạn tốt” nữa nhé!
Nỗi sợ hãi sẽ luôn đồng hành trong hành trình lớn lên của trẻ. Thương con, không muốn bé bị giật mình hay nơm nớp sợ về một điều gì đó thì mẹ phải học cách xua đi nỗi sợ hãi của con mẹ nhé.
Nỗi sợ hãi là gì?
Thực ra, đây là một trong những mốc phát triển tâm lý đầu tiên của bé. Khi được 6-7 tháng tuổi, bé đã bắt đầu có ý thức về người quen, người lạ. Nếu như trước đây, mẹ cảm thấy bé rất dễ theo người này, người khác thì từ giai đoạn này, bé lại thường bám chặt lấy người mẹ và sợ sệt khi có người lạ xung quanh. Thậm chí với cả những người thân nhưng ít gặp, bé cũng tỏ rõ nỗi sợ hãi.
Phản ứng trước người lạ có thể biểu hiện theo nhiều cách khác nhau như bé nhìn nghi ngại, mếu máo hoặc òa khóc khi có người lạ bất ngờ tiến lại gần. Bé yêu cũng có thể lo sợ việc ở gần người lạ nhiều hơn khi bé mệt mỏi, đói bụng hay bị ốm.
Nỗi sợ hãi dễ biến ta thành người thiếu tự tin, bất an và tới mức nào đó có thể đẩy tới nỗi ám ảnh trong cuộc đời. Song cũng có những nỗi sợ mang tính tích cực như việc trẻ nhỏ sợ đứt tay thì không dám cầm dao; sợ mẹ la rầy thì biết nghe lời hơn; sợ điểm kém thì phải chăm chỉ học bài. Đối với người lớn “sợ” đôi khi giúp ta dừng lại trước những việc không nên làm. Như vậy nỗi sợ hãi lại mang tính nhân văn.
Điều đáng nói là người lớn thường suy nghĩ theo cách của mình và cho rằng nỗi sợ hãi của bé là nhảm nhí, ngớ ngẩn. Con kiến nhỏ bé kia thì có gì phải làm con sợ đến thế! Thật ra nỗi sợ của một đứa trẻ có thể khác với người lớn nhưng cảm giác là giống nhau. Nếu chân tay bạn run rẩy, miệng lắp bắp khi nói trước đám đông thì bé run sợ, quýnh lên khi con kiến bò dưới chân mình cũng là điều dễ hiểu. Vì vậy người lớn hãy tôn trọng, lắng nghe và giúp đỡ trẻ vượt qua nỗi sợ hãi hàng ngày.
Cũng cần hiểu thêm về nỗi sợ hãi của trẻ ở góc độ thời gian. Đa số nỗi sợ hãi ở trẻ mang tính tạm thời. Lúc này bé sợ nước, lúc khác bé lại sợ ma, rồi sợ đi họ. Nó sẽ qua đi theo năm tháng. Bạn chỉ cần hiểu tâm lý và tác động khéo để nỗi sợ của bé chấm dứt sớm. Trường hợp sợ hãi trở thành nỗi ám ảnh, bạn không thể tự mình giải quyết mà cần tới sự can thiệp của bác sĩ và chuyên gia tâm lý.
Giúp bé vượt qua nỗi sợ hãi
1. Cách vượt qua nỗi sợ hãi người lạ
Bé 1 tuổi đã nhận biết rõ được đâu là người nhà và đâu là người lạ. Bé thường bám lấy mẹ như cái đuôi không lúc nào muốn dời. Thấy người lạ là quay ngoắt mặt đi. Ai có ý định tiếp cận, đưa tay ra bế lập tức bé bấu chặt lấy mẹ hết sức có thể và la lên om sòm khiến ta phải “đầu hàng”.
Từ khi sinh ra bé chỉ gắn bó và quen hơi của mẹ thôi! Trao tay cho người khác bé sẽ cảm có cảm giác như bị chia lìa, bất an và sợ hãi. Đây là tâm lý chung của các bé khi bước sang giai đoạn nhận thức rõ người thân, người lạ. Tuy nhiên, nếu mẹ sợ bé khóc và luôn giữ con khư khư bên cạnh thì nỗi sợ hãi kia sẽ không được chấm dứt.
♦ Giúp con chiến thắng nỗi sợ hãi
Để bé cưng hết sợ người lạ và mẹ đỡ vất vả khi cứ phải kè kè bên con, việc tập cho con “hòa đồng” với mọi người xung quanh ngay từ nhỏ sẽ rất cần thiết. Lúc bé còn ẵm ngửa, thường xuyên để ông bà, cô dì, chú trong gia đình bế bé. Có dịp giao lưu với hàng xóm thì mẹ cũng nên cho con đi “hóng hớt” chuyện một chút nhé. Cứ như vậy bé sẽ dần quen và cảm thấy thích thú khi được tiếp xúc với mọi người.
Khi bé đã nhận thức rõ ràng đâu là người quen, người lạ cũng là lúc trở nên “khó tính” hơn. Việc mẹ trao bé cho ai khác khi mỏi tay hay cần làm gì đó sẽ khó khăn ngàn lần. Mẹ cần kiên nhẫn, cho con tiếp xúc từ từ, đầu tiên với những bé cùng lứa tuổi. Cũng đừng quên thường xuyên đưa bé tới chơi nhà họ hàng, đi công viên, mời người quen về nhà chơi (đặc biệt là những người vui vẻ, có khiếu hài hước, nịnh trẻ con giỏi).
Thấy con cười toét miệng khi được ai đó hỏi han, không ngại ngần theo các anh chị đi mua bánh kẹo chứng tỏ mẹ đã thành công với việc giúp con xua tan nỗi sợ rồi đấy.
Trẻ bụ bẩm vẫn có nguy cơ bị còi xương
2. Ma – Nỗi sợ hãi kinh hoàng của trẻ
Trí tưởng tượng của trẻ con rất phong phú, đa dạng. Hình ảnh mụ phù thủy, ma quỷ từ trong truyện cổ tích hay phim hoạt hình có thể bước ra ngoài đời thật bất cứ khi nào. Nhất là khi bé ở một mình vào buổi tối. Con ma không đầu luôn chầu trực đâu đó trong từng góc phòng, sẵn sàng nhảy bổ ra ăn thịt trẻ con, trong khi bé biết mình không đủ sức mạnh để chống lại.
Vì vậy mẹ dễ dàng nhận thấy bé khăng khăng không chịu ngủ một mình, trong giấc ngủ thường gặp ác mộng. Điều này không chỉ các bé 3-4 tuổi, bước sang tuổi teen, trẻ còn ám ảnh bởi con ma không có thực này.
♦ Làm gì để giúp con?
Người lớn, không nên tiêm nhiễm vào đầu óc non nớt của bé những lời dọa nạt như: “Con không ăn ngoan là mẹ gọi ông kẹ lại bắt con đó”, “mau ngủ đi không là con ma nó xuất hiện bây giờ”. Với lời dọa nạt như vậy mẹ muốn con ngoan ngoãn nghe lời. Vô hình chung hình tượng ma quỷ trở thành nỗi ám ảnh từ bữa ăn tới giấc ngủ của trẻ.
Tới giờ ngủ nếu bé cứ chui tọt vào phòng của ba mẹ, không chịu ngủ một mình vì sợ con ma xuất hiện. Đầu tiên mẹ cần đảm bảo mở đèn ngủ để có lượng ánh sáng cần thiết trong phòng bé. Bé sẽ yên tâm hơn khi không phải chống chọi với không gian tối tăm đầy ma mị.
Nên dắt con đi kiểm tra từng ngóc ngách mà bé cho rằng có con ma đang ẩn náu. Với biện pháp này bạn đã khẳng định được rằng: “Nhà mình tuyệt đối không có ma đâu con”. Bé vì vậy mà an tâm ngủ ngon lành.
Sắm cho con những người bạn gấu bông, thỏ bông, siêu nhân để bé ôm khi ngủ. Bé sẽ cảm thấy mình không đơn độc và luôn có người bảo vệ kề bên.
Khéo léo hỏi bé xem con ma con “thấy” nó như thế nào? Bạn giúp con phác họa ra giấy, sau đó có thể thêm cho nó một vài chiếc răng sún, một cái mũi đỏ… để con ma đáng sợ trở thành con ma vui vẻ, đáng yêu trong mắt và trí tưởng tượng của bé.
3. Bé sợ bác sĩ
Sức đề kháng của trẻ nhỏ thường yếu nên các mẹ phải đưa con đi gặp bác sĩ như ăn cơm bữa cũng là chuyện đương nhiên. Tuy vậy, bé chẳng thể nào “quen” được. Cảnh tượng bé co rúm người lại, la khóc bám chặt lấy mẹ không còn lạ lẫm. Đơn giản vì bé sợ đau, sợ vị đắng ngắt của những viên thuốc.
♦ Làm gì để giúp con?
Chơi trò bác sĩ khám bệnh. Bằng cách sắm cho bé bộ đồ bác sĩ, ống nghe, cặp nhiệt độ. Để bé đóng vai bác sĩ khám bệnh cho mẹ. Hoặc hướng dẫn để bé chơi trò chơi này cùng các bạn của mình. Với cách này, bé sẽ thấy thân quen hơn với hình ảnh bác sĩ.
Đối mặt với nỗi sợ hãi. Nên giải thích nhẹ nhàng với bé rằng việc gặp bác sĩ hay khám bệnh là cần thiết, giúp bé không bị mệt, bị đau nữa. Có thể mô tả một cách đơn giản quá trình khám bệnh để bé nắm được “tình hình” và trả lời các câu hỏi của bé về việc này để tâm lý bé được ổn định, không hoảng hốt.
Khích lệ, động viên. Trẻ rất thích ai đó khen mình đã trưởng thành. Vậy mẹ không nên “tiếc lời” khen con, chẳng hạn “con trai của mẹ đã lớn thật rồi, con rất can đảm không sợ điều gì đúng không? Con sẽ chứng minh cho mẹ thấy điều đó khi gặp bác sĩ chứ!”, bé sẽ không ngại ngần chứng tỏ bản thân mình.
Mẹ cũng đừng quên có phần thưởng nho nhỏ cho bé khi con dần vượt qua nỗi sợ hãi này nhé.
4. Bé sợ đi học
Hẳn các mẹ từng trải qua hoặc cũng từng chứng kiến cảnh bé gào khóc, ăn vạ mỗi sáng đi mẫu giáo. Bé sợ bị bỏ rơi, sợ môi trường mới, sợ đàn anh đàn chị trong trường cắn. Có vô vàn điều khiến bé phải sợ chết khiếp!
♦ Làm gì để giúp con?
Lên lịch sinh hoạt, giờ giấc ăn, ngủ, nghỉ ở nhà giống với trường để bé quen nếp, tránh tình trạng bị xáo trộn đột khi tiếp xúc với môi trường mới.
Thường xuyên trò truyện và hướng con nghĩ tới những điều thú vị ở trường như: có nhiều bạn chơi cùng, có nhiều trò chơi, cô giáo hát và kể truyện hay như thế nào.
Liên lạc với cô giáo để biết thêm về những thay đổi của bé ở trường, kịp thời có những biện pháp can thiệp khi bé bị những bạn nhí cào, cắn.
Với những bé lớn hơn thường sợ tới trường vì bài vở. Bạn nên quan tâm tới phương pháp học của trẻ. Hãy cùng con học bài, khuyến khích động viên trẻ khi con trả lời đúng. Học hành tiến bộ trẻ sẽ không còn sợ tới trường nữa.
5. Trẻ sợ những thay đổi trên cơ thể
Bước sang tuổi teen, bé trai và bé gái sẽ có những thay đổi rõ rệt mà trước hết là trên cơ thể. Thân hình phổng phao, vùng kín xuất hiện những sợi lông tơ thật khó chịu! Ở bé gái, một vài giọt màu đỏ dính dưới quần khiến chúng không khỏi bối rối và sợ hãi.
Bé trai bỗng dưng đổi giọng, tối ngủ gặp phải giấc mơ kỳ kỳ. Chúng lo sợ không biết mình đang bị gì thế này. Đây là dấu hiệu đánh dấu bước ngoặt trưởng thành của trẻ. Nếu bạn không giúp trẻ hiểu, đa số chúng chỉ biết ấp ủ nỗi sợ kín đáo này trong lòng.
♦ Làm gì để giúp con?
Trẻ thường hay xấu hổ khi nhắc tới chuyện này, bạn nên tác động tế nhị để bé nói ra vấn đề đang gặp phải. Nếu là con trai, mẹ nên nhờ bố nói chuyện với trẻ. Là bé gái, dĩ nhiên mẹ sẽ thích hợp hơn ai hết.
Lứa tuổi này bạn đã có thể giải thích để con hiểu rằng những thay đổi đó là đương nhiên, ai cũng đều trải qua, không phải điều gì kinh khủng. Con sẽ có nhiều lựa chọn hơn cho những trang phục, kiểu tóc của mình, bạn hướng con tới điều tốt đẹp.
Bên cạnh việc giải thích, động viên con bạn cũng đừng quên giúp trẻ hiểu thêm về cách chăm sóc, vệ sinh thân thể, những thông tin về sức khỏe sinh sản cho con ngay từ bây giờ.
Nỗi sợ hãi là bản chất ở con người. Nếu như người lớn chúng ta sợ bệnh tật, sợ già, sợ chết đi thì trẻ con cũng có quyền sợ ma quỷ, bóng tối, thậm chí là con côn trùng nhỏ bé. Hãy tôn trọng và giúp con xua tan nỗi sợ nhất thời ấy để con được “ăn ngon ngủ yên” và để nỗi sợ ấy chỉ còn là kỷ niệm đẹp trong tuổi thơ của con.
Không phải là một “sinh vật lạ” mới xuất hiện trong thời gian gần đây, kiến ba khoang có tên gọi khoa học là Paederus fuscipest thuộc họ Staphilinidae, là con vật đã sống trên những cánh đồng Việt Nam từ hàng ngàn năm nay. Theo ý kiến của nhiều chuyên gia, kiến ba khoang là một động vật hiền lành và hiếm khi tấn công con người. Tuy nhiên, chính bản năng bảo vệ tự nhiên của loài kiến này lại khiến con người chúng ta phải dè chừng.
Các chuyên gia nghiên cứu cho rằng, trong cơ thể kiến ba khoang có tồn tại một loại độc chất có tên gọi pederin, có thể gây bỏng và viêm da ngay khi tiếp xúc. Trong quá trình tương tác giữa các chất trong cơ thể và các loại ký sinh trùng, pederin được hình thành, giúp loài kiến này có thể tự bảo vệ mình khỏi kẻ thù tự nhiên. Tồn tại trong cơ thể nên khi bị giết chết bằng tay, chất pederin sẽ tiết ra mạnh mẽ nhất, làm phồng, rộp da. Không biết điều này nên rất nhiều mẹ đã “tay không” giết kiến và lãnh nhiều hậu quả nặng nề. Cùng MarryBaby tìm hiểu 3 sai lầm thường gặp của rất nhiều mẹ khi đối mặt với kiến ba khoang và rút kinh nghiệm cho bản thân, mẹ nhé!
So với người lớn, nguy cơ trẻ bị viêm da sẽ cao hơn rất nhiều
1/ Tay không diệt kiến
Lo sợ con bị kiến cắn nên ngay khi vừa thấy chúng xuất hiện trong tầm ngắm, nhiều mẹ đã nhanh tay “trừ khử” ngay. Tuy nhiên, ngay chính lúc mẹ dùng tay giết kiến, chất độc pederin có thể bị tiết ra, dính vào da của bé và ngay cả da của mẹ gây phồng rộp, ngứa rát. Để tránh trường hợp này, khi nhìn thấy “kẻ địch”, mẹ nên dùng giấy báo hoặc bất kỳ vật dùng nào để đuổi chúng ra khỏi người con trước đã nhé! Tuyệt đối không dùng tay không bắt hay giết kiến.
2/ Xử dụng thuốc “tự chế” cho con
Thấy da của con có dấu hiệu phồng rộp, sưng đỏ, mẹ tự ý dùng một vài loại thuốc “dân gian” đắp lên da của con với hy vọng có thể làm vết thương của bé dễ chịu hơn. Thực tế, điều này chỉ khiến nguy cơ viêm nhiễm trên da của bé trở nên nguy hiểm hơn.
Trong những trường hợp bé bị kiến ba khoang cắn, mẹ nên sử dụng hồ nước bôi lên da của con để làm mát và tránh làm da bị phồng rộp. Thậm chí nếu da con đã lỡ bị sưng, mẹ cũng có thể dùng hồ nước để làm dịu vết thương cho bé. Nếu da có dấu hiệu mưng mủ, nhiễm trùng, mẹ có thể dùng dung dịch xanh methylen để sát khuẩn.
3/ Không đưa con đi khám kịp thời
Trẻ em, nhất là trẻ nhỏ thường có hệ miễn dịch rất kém nên các vết cắn có thể dễ dàng trở nên viêm nhiễm hơn so với người lớn. Đặc biệt, trẻ con chưa ý thức được nên rất thường xuyên gãi, càng khiến nguy cơ bị bội nhiễm cao hơn. Chính vì vậy, ngay khi thấy vết thương của bé trở nên nghiêm trọng hơn, mẹ nên đưa con đi khám ngay lập tức để được khám và điều trị kịp thời.
Khi được 6 tháng tuổi, bé cần được cung cấp các loại vitamin sau để hỗ trợ quá trình trao đổi chất, giúp chuyển hóa tối đa chất dinh dưỡng thành năng lượng, tăng cường sức đề kháng và bảo vệ cơ thể bé yêu:
Vitamin A giúp da, tóc của bé khỏe, tăng độ sáng của mắt, hỗ trợ sức đề kháng, giúp cơ thể bé bé chống chọi lại các bệnh nhiễm khuẩn thông thường.
Vitamin D giúp thúc đẩy quá trình hấp thu canxi và photpho. Ngoài việc bổ sung sữa và các chế phẩm từ sữa có vitamin D, mẹ cũng nên dành ra 10-15 phút mỗi ngày cho bé tắm nắng để giúp bé hấp thu canxi tốt hơn.
Vitamin C và vitamin E giúp răng và da săn chắc, từ đó cơ thể dễ hấp thu chất sắt tốt hơn, tăng sức đề kháng, tăng cường chức năng miễn dịch chống chọi với các loại bệnh tật.
Bên cạnh vitamin, khoáng chất cũng quan trọng để nuôi dưỡng cơ thể đang ngày càng phát triểncủa bé.Trong đó phải kể đến:
Sắt– khoáng chất thiết yếu cho sự hình thành và hoạt động của các tế bào hồng cầu, vốn có nhiệm vụ cung cấp ô-xygiúp não bộbé tăng trưởng. Danh sách thực phẩm giàu sắt cho bé như thịt, gan, các loại đậu, rau lá màu xanh sẫm.
Canxi cũng là chất đóng vai trò quan trọng trong việc củng cố khung xương và răng bé thêm chắc khỏe.
Kẽm cũng là một vi chất thiết yếu trong việc phát triển chiều cao, thể chất, giúp trẻ ăn ngon miệng. Bổ sung kẽm cho bé từ các loại đậu, nấm, sò biển, thịt heo, tôm cá,…
Làm thế nào để giữ trọn vẹn vitamin – khoáng chất trong thực phẩm của bé?
Bảo quản thức ăn cho bé đúng cách để các vi chất dinh dưỡng không bị hao hụt là điều mẹ nên nằm lòng trong hành trình cho bé ăn dặm. Một số mẹo mẹ nên tham khảo:
Rửa sạch các loại rau củ dưới vòi nước chảy để vitaminC và một số khoáng chất không bị hòa tan khi ngâm quá lâu trong nước.
Không nên gọt vỏ trái cây quá sâu vì các chất dinh dưỡng cũng nằm nhiều ở lớp vỏ này.
Tránh bào quản thức ăn lâu ngày và hâm đi hâm lại nhiều lần vì dễ làm hao hụt dưỡng chất trong thực phẩm.
Giai đoạn từ 6- 9 tháng tuổi, bé đã dần cứng cáp hơn, mẹ hãy đa dạng thức ăn của bé bằng cách bổ sung thức ăn mặn như thịt cá, rau, củ hay dầu, mỡ. Bật mí, mẹ có thể đa đạng thức ăn của bé với bột ăn dặm RiDIELAC Yến mạch sữa giàu dinh dưỡng với các lợi ích như sau:
Ngoài chất xơ tự nhiên từ yến mạch, RiDIELAC còn chứa dồi dào lượng vitamin A, D, E…cũng như giàu canxi, sắt, kẽm…hỗ trợ sự phát triển toàn diện của bé.
Bổ sung vi sinh vật có lợi Bifidobacterium, BB-12TM, giúp bé không những phát triển trí não mà còn hỗ trợ sức khỏe hệ tiêu hóa, hệ miễn dịch, cân đối lượng và chất đối với dạ dày tí hon của bé.
Ngoài bột vị ngọt, RiDIELAC còn có vị mặn như RiDIELAC Yến mạch gà đậu Hà Lan, Bò rau củ, thịt heo bó xôi… giúp thay đổi khẩu vị cho bé mỗi ngày.
Cho bé yêu ăn dặm cũng là một niềm vui không hề nhỏ đối với mẹ. Mẹ hãy nằm lòng vai trò quan trọng của những vi chất dinh dưỡng thiết yếu cho cơ thể bé yêu và giúp bé bước vào thế giới ăn dặm đầy niềm vui thông qua những món ăn thơm ngon, đầy màu sắc và dồi dào giá trị dinh dưỡng.
Cứ mỗi 2 giờ, bé sơ sinh lại cần được bú sữa và cùng với sữa, bé cũng nuốt vào một lượng khá nhiều không khí. Nếu không được ợ hơi, không khí tồn đọng có thể gây đầy bụng, khó chịu và có khi là nguyên nhân gây ra trào ngược, nôn trớ cho bé. Cách cho bé ợ hơi đúng đòi hỏi mẹ lưu ý đến tư thế bế bé, cách xoa hoặc vỗ lưng để hỗ trợ bé đẩy hơi ra khỏi bụng.
3 cách cho bé ợ hơi
♦ Bế bé áp vào ngực: Mẹ ngồi thẳng và để đầu bé tựa vào vai, thân người bé áp vào ngực. Một tay mẹ đỡ mông bé và một tay còn lại xoa hoặc vỗ nhè nhẹ vào lưng bé. Nếu mẹ ngồi trên một chiếc ghế bập bênh và nhún nhẹ thì cũng có thể tạo ra tác dụng tương đương.
♦ Cho bé ngồi trong lòng mẹ: Cách ợ hơi thứ hai là để bé ngồi thẳng trên đùi mẹ, dùng lòng bàn tay đỡ cằm của bé và phần cổ tay đỡ phần ngực bé. Tay còn lại nhẹ nhàng vỗ vào lưng bé. Mẹ có thể để bé ngồi hơi nghiêng về đằng trước để đẩy hơi ra dễ dàng hơn.
♦ Để bé nằm sấp: Để bé nằm sấp trên đùi mẹ và dùng tay để hỗ trợ phần đầu cho bé. Mẹ hãy đảm bảo rằng phần đầu bé cao hơn phần ngực. Vỗ nhẹ lưng bé.
3 tư thế cho bé ợ hơi mà mẹ có thể luân phiên thay đổi
Trong những ngày đầu tiên, mẹ có thể cảm thấy lo lắng vì phần cổ của bé còn yếu nên không muốn bế đứng hoặc để bé ngồi hay nằm sấp. Nhưng khi thực hiện đúng cách, phần đầu và cổ của bé luôn được hỗ trợ và bé sẽ không cảm thấy khó chịu tí nào cả. Hơn nữa, việc tập nằm sấp sẽ khuyến khích bé mau học cách nâng đầu lên, một trong những bước quan trọng để khởi đầu cho khả năng vận động toàn thân của bé sau này.
[inline_article id=103201]
Mẹ cũng nên lưu ý, lặp đi lặp lại việc vỗ nhẹ nhàng sẽ rất hiệu quả. Không có lý do gì để dùng lực mạnh trên lưng của bé, vì nó sẽ không giúp bé ợ hơi hiệu quả hơn. Và để tránh việc bé có thể ọc ra một ít sữa trong mỗi lần ợ hơi làm bẩn quần áo, mẹ nhớ lót vai hay đùi của mình bằng một chiếc khăn sạch nhé.
Khi nào cho bé ợ hơi?
Với một em bé khỏe mạnh, mẹ luôn cần cho con ợ hơi sau mỗi cữ bú. Tốt nhất, cứ sau mỗi 60 đến 90ml sữa hoặc mỗi lần đổi bên ngực, mẹ nên cho con ợ hơi trước khi tiếp tục cho bú.
Đối với các em bé bị trào ngược, nôn trớ nhiều hoặc đang có dấu hiệu đầy bụng và khó chịu, mẹ lại càng phải cho ợ hơi nhiều lần. Hãy cho bé ợ hơi mỗi khi bú xong bình sữa hay sau mỗi 5 phút bú mẹ.
Nếu bé vẫn chưa ợ hơi, mẹ nên thay đổi tư thế của bé và thử lại sau một vài phút. Mẹ cần cho bé ợ hơi trước khi tiếp tục cho bú. Luôn ghi nhớ cho bé ợ hơi sau khi bú xong, mẹ nhé.
Trong suốt 6 tháng đầu, không chỉ cần cho bé ợ hơi, sau mỗi cữ bú mẹ nên bế bé thẳng đứng trong 10 đến 15 phút để tránh không cho sữa trào ra. Đôi khi bé thức giấc và quấy khóc ban đêm cũng chỉ vì đầy bụng và việc cho bé ợ hơi sẽ giúp con ngủ trở lại.
Làm sao biết trẻ đã ợ hơi hay chưa?
Khi ợ hơi, bé sẽ phát ra thành tiếng hoặc ngừng khóc và chịu bú mẹ tiếp. Thời gian mẹ vỗ lưng ợ hơi cho bé sẽ tùy vào lượng không khí trong dạ dày. Thông thường, thời gian này sẽ rơi vào khoảng từ 10 – 15 phút.
Những lợi ích đáng ngạc nhiên từ việc mẹ cho bé ợ hơi sau khi bú
Trên thực tế, các nhà khoa học đã nghiên cứu và đưa ra kết luận về mặt lợi ích khi cho bé ợ hơi sau khi bú như sau:
1. Làm giảm đáng kể các cơn đau bụng
Như đã đề cập, việc ứ đọng không khí thừa là nguyên nhân dẫn đến tình trạng trẻ bị đau bụng hoặc các cơn đau dạ dày. Nếu được ợ hơi sau mỗi lần cho bú, ắt hẳn nguy cơ xuất hiện các cơn đau trên sẽ giảm tối đa.
2. Trẻ cảm thấy thoải mái hơn trong mọi hành động
Hãy hình dung khi chúng ta bị đầy hơi. Lúc này, bạn sẽ cảm thấy vô cùng mệt mỏi, khó chịu. Các triệu chứng như vậy cũng xuất hiện tương tự ở trẻ sơ sinh, đôi khi có kèm hiện tượng nôn trớ ngay khi cho ăn.
Chính vì thế, việc tạo điều kiện để trẻ ợ hơi sau khi bú chính là cách bạn bảo vệ hệ tiêu hóa non nớt của bé. Bên cạnh đó, trẻ sẽ thấy thoải mái, vui vẻ hơn trong mọi hoạt động. Có như vậy trẻ mới hấp thu thức ăn được tốt và mau lớn hơn từng ngày.
3. Ợ hơi sau khi bú giúp cải thiện hoạt động đường ruột
Thao tác nuốt trong khi bú vô tình đưa một lượng không khí vào trong bụng trẻ. Nó gây cản trở khá nhiều đến hoạt động tiêu hóa, hấp thu. Hệ quả là trẻ cảm thấy khó chịu, bứt rứt.
Nếu lượng không khí dư thừa này được loại bỏ, hệ tiêu hóa sẽ lại làm việc dễ dàng. Mọi giai đoạn tiêu hóa lúc này không còn bị cản trở, trẻ sẽ hấp thu chất dinh dưỡng từ sữa tốt hơn.
4. Bé sẽ ngon giấc hơn
Tình trạng ứ đọng hơi kéo dài mà không được giải tỏa sẽ khiến bé trằn trọc, khó ngủ. Đây cũng là lý do vì sao trẻ lại thức giấc thường xuyên hơn. Nếu chịu khó để ý, các bà mẹ sẽ dễ phát hiện trẻ đang thấy khó chịu ở bụng. Để giải quyết vấn đề này, bạn hãy bế bé thẳng lên, đầu tựa vào vai bạn, vỗ nhẹ lên lưng con đến khi nào trẻ ợ được thì hãy đặt bé nằm xuống ngủ.
Liệu có ổn không khi trẻ khóc trong suốt quá trình mẹ cho ợ hơi?
Theo quan sát, một số trẻ sơ sinh khóc trước, trong hoặc sau khi ợ hơi. Sở dĩ như vậy có thể là do bé cảm thấy không thoải mái hoặc chưa thể đẩy hết không khí ra khỏi cơ thể thông qua việc ợ hơi. Các bậc phụ huynh cần giám sát chặt chẽ nếu trẻ khóc thường xuyên trong khi ợ hơi, vì điều này có thể là dấu hiệu cảnh báo một vấn đề tiềm ẩn mà trẻ đang mắc phải. Trong trường hợp này, cần tham khảo ý kiến của bác sĩ nhi khoa ngay lập tức.
Ngoài ra, bạn cần chú ý thực hiện đúng hướng dẫn ợ hơi cho trẻ sau khi bú. Có như vậy, trẻ sơ sinh mới cảm thấy dễ chịu.
Thường một số người lớn có kinh nghiệm hay khuyên phải cho trẻ khóc một chút. Các bác sĩ nhi khoa ngày nay cũng cho rằng, hành động khóc sẽ khiến cơ bắp và phổi của bé được cung cấp đủ oxy. Ngoài ra, bạn cũng nên lưu ý cho trẻ ăn ít nhất 3 giờ một lần để nhận được đủ lượng dinh dưỡng cần thiết.
Trong hành trình đồng hành cùng con, một trong những câu hỏi được nhiều cha mẹ thắc mắc đó là trẻ biết ngồi trước hay bò trước để có thể hỗ trợ con phát triển tốt nhất.
Trẻ biết ngồi trước hay bò trước?
Trẻ thường phát triển theo từng giai đoạn và có thể có sự khác biệt trong cách học ngồi và bò (có nghĩa là học cách ngồi trước khi học cách bò) tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể. Tuy nhiên, sự phát triển phổ biến ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ thường theo trình tự sau:
– Trẻ mới sinh không thể tự mình ngồi hoặc bò. Trẻ sẽ thường nằm ngửa hoặc nằm nghiêng với một bên cơ thể hơi uốn cong cách thoải mái nhờ vào sự hỗ trợ từ cha mẹ.
– Sau một thời gian, trẻ sơ sinh có thể lật người nằm sấp và nâng đầu lên. Khi trẻ có đủ sức mạnh và linh hoạt trong các cơ bắp cổ và vai, trẻ có thể học cách nâng người lên từ tư thế nằm sấp.
– Khi trẻ đã thực hiện thành công các bước trước đó và có đủ sức mạnh, con có thể học cách bò và cuối cùng học cách ngồi. Từ độ tuổi này, trẻ có thể bắt đầu thử nghiệm vận động từ việc bò đến việc ngồi, sau đó đứng và đi.
Như vậy, trẻ biết ngồi trước hay bò trước? Theo sự phát triển thông thường, trẻ sẽ biết bò trước biết ngồi.
Tuy nhiên, một số trẻ có thể phát triển theo cách khác nhau hoặc với sự hỗ trợ đặc biệt tùy thuộc vào từng trường hợp. Trong trường hợp trẻ có vấn đề về phát triển, ba mẹ cần theo dõi sự phát triển của trẻ để đảm bảo bé có cơ hội phát triển một cách tối ưu.
Khi mới sinh, dù cho mẹ có mong đến thế nào thì các bé cũng mới chỉ biết nằm im và động đậy các ngón tay, ngón chân mà thôi. Nhưng chỉ cần đến sinh nhật đầu tiên của bé, mẹ sẽ được thấy cách mà nhóc tì đứng lên và bước trên đôi chân của mình. Rất nhanh, mẹ sẽ quên mất rằng đã có lúc chiếc “hỏa tiễn” này chỉ biết ngồi yên một chỗ.
Thực ra, các giai đoạn phát triển của trẻ không thể diễn ra chỉ sau một đêm. Các bé phải “làm việc” khá vất vả và kiên nhẫn để thành thạo các kỹ năng vận động này đấy mẹ ạ. Khi các cơ bắp tiếp tục phát triển và thành thạo việc di chuyển, bé sẽ trở thành một nhà thám hiểm tí hon, đi tới khắp mọi ngóc ngách trong nhà để khám phá. Nhưng trước hết, mẹ hãy thử điểm qua từng giai đoạn phát triển của bé cưng đã nhé.
1. Nâng cao đầu
Sự phát triển các cơ cổ chính là bước đầu tiên trong cả hành trình phát triển kỹ năng vận động của bé. Trong vài tuần đầu tiên, có thể mẹ sẽ thấy cổ bé khá mềm. Tuy nhiên, nếu mẹ đặt bé nằm sấp thì bé sẽ nhanh chóng học cách nâng đầu lên vài giây. Khi trẻ 3 tháng tuổi, bé sẽ bắt đầu quay đầu sang trái, sang phải để nhìn theo sự di chuyển của mẹ hoặc những món đồ chơi nhiều màu sắc. Những cử động này giúp tăng cường sức mạnh cho cổ của bé. Đến khoảng tháng thứ tư, bé sẽ có thể nâng cao đầu trong khi đang chống hai khuỷu tay của mình xuống sàn.
2. Lăn tròn
Một khi bé đã có thể nâng cao đầu khi đang nằm sấp cũng là lúc bé đã có thể lăn. Đầu tiên, bé mới chỉ biết lăn từ nằm sấp sang nghiêng, sau đó thì từ nằm sấp sang nằm ngửa. Đến tháng thứ 6, mẹ sẽ thấy bé thực hiện những vòng lăn liên tục khi con di chuyển từ chỗ này sang chỗ khác. Lúc này, cơ bụng của con đã đủ khỏe cho hoạt động lăn người.
3. Trẻ biết ngồi trước hay bò trước? Bé sẽ tập bò trước nhé mẹ
Đây là một mốc đáng kể trong các giai đoạn phát triển của trẻ. Tất cả trọng lượng cơ thể đã được đặt lên 4 trụ cột: 2 cánh tay và 2 chân. Các nghiên cứu nhận thấy trẻ sinh ra vào mùa đông và xuân sẽ mau biết bò hơn so với những bé sinh ra trong mùa hè và thu. Nhưng hầu hết trẻ đều thành thạo kỹ năng này trong khoảng từ 7 đến 10 tháng. Nếu con bạn chậm biết bò, không sao cả. Rất nhiều trẻ bỏ qua giai đoạn này và vẫn phát triển bình thường.
Trẻ biết ngồi trước hay bò trước? Bé tập ngồi sau khi tập bò
Như đã đề cập ở phần trẻ biết ngồi trước hay bò trước, mẹ đã biết trẻ sẽ bò trước khi có thể tự ngồi. Tuy sử dụng cùng nhóm cơ với chuyển động lăn, việc tìm cách ngồi vững sẽ gây khó khăn cho bé nhiều hơn. Thỉnh thoảng, mẹ sẽ thấy bé hơi đổ người về trước, chống hai tay để giữ thăng bằng. Đến 8 tháng tuổi, bé sẽ không cần hỗ trợ khi ngồi nữa. Tuy đôi khi vẫn bị ngả nghiêng, bé sẽ nhanh chóng dùng cánh tay để đỡ thân người của mình.
Và vì các cơ ở phần thân trên đã trở nên mạnh mẽ hơn, bé có thể với và cầm đồ chơi trong lúc ngồi mà không cần mẹ phải giúp đỡ. Vài tháng trôi qua, bé sẽ biết giữ lưng và đầu thẳng. Dần dà, bé sẽ không còn phải chống tay để đỡ người nữa. Giờ đây, đôi tay đã được tự do để cầm đồ chơi.
5. Đứng lên và bước đi
Sau khi biết ngồi và biết bò, bé đã rất mong ngóng được đứng lên và bước đi. Tất cả mọi đồ vật trong nhà đều có thể trở thành tay vịn của con như thành củi, bức tường, chiếc ghế… Khi mới tập đứng lên, bé sẽ không biết cách để ngồi xuống, nên nếu nghe con khóc lóc xin trợ giúp, mẹ nhớ chỉ cho bé cách cong đầu gối để hạ thân người xuống nhé.
Chẳng bao lâu sau đó, bé đã có thể đi một vòng bằng cách bám vào thành củi, hay vịn theo các cạnh tường để di chuyển. Khi đã tập được khả năng giữ thăng bằng tốt hơn, bé sẽ bước khỏi vòng tay của mẹ để thực hiện những bước đi của chính mình. Thời điểm bé biết đi có thể dao động trong khoảng 8 đến 18 tháng. Mẹ đừng vội lo lắng khi con chưa chịu “nhúc nhích” trong khi các bé cùng lứa đã bắt đầu đi lon ton rồi nhé.
Để con đi nhanh và chắc chắn, mẹ hãy để bé đi chân trần. Điều này giúp bé bám đất tốt và giữ thăng bằng thoải mái hơn so với đi giày.
Trẻ biết ngồi hay bò trước? Sự phát triển thể chất của bé
Các giai đoạn phát triển của trẻ là một hành trình với nhiều tốc độ khác nhau, khi nhanh, khi chậm, và chúng luôn đi qua những điểm mút mà chúng ta gọi là thời điểm phát triển thể chất. Vì mỗi bé có tốc độ phát triển riêng của mình, các điểm mốc này sẽ không hoàn toàn trùng khớp ở tất cả mọi trẻ em.
Tuy thế, bố mẹ vẫn có thể “nhận diện” các giai đoạn này thông qua:
Sự gia tăng các cữ ăn hoặc bú: Mặc dù vẫn được cho bú hay ăn như mọi ngày nhưng bé vẫn tỏ ra đói bụng
Gắt gỏng và đeo mẹ: Con đã không còn vui vẻ và thoải mái nữa mà trở nên khó chịu, nhăn nhó và đặc biệt là “dính” lấy mẹ bất cứ lúc nào. Nhiều nhà khoa học nghiên cứu về các giai đoạn phát triển của trẻ cho biết, trong một vài tuần bé có thể luôn hạnh phúc và tươi tắn, thế rồi giai đoạn phát triển đến và kéo theo hàng loạt những “đám mây u ám”. Đến nay vẫn chưa có lời giải thích thỏa đáng cho sự thay đổi này, nhưng nhiều người tán đồng với ý tưởng rằng bé cảm thấy mệt mỏi hay bị choáng ngợp khi dồn năng lượng của cơ thể cho các bước phát triển mới.
Thức trắng đêm hoặc luôn tỏ ra buồn ngủ: Trong một giai đoạn tăng trưởng bứt phá, bé sẽ thường xuyên thức dậy ban đêm vì cơn đói hoặc ngược lại, những thay đổi này làm bé mệt mỏi và muốn được ngủ nhiều hơn.
2. Các mốc phát triển thể chất
Thông thường, các mốc phát triển bùng phát của bé nằm trong khoảng:
2 tuần tuổi
3 tuần tuổi
6 tuần tuổi
3 tháng tuổi
6 tháng tuổi
Những bộ đồ đã chật, thêm một ngấn mập mạp trên đùi bé… đó có thể là những kết quả của đợt tăng trưởng mạnh mẽ đã hoặc đang diễn ra. Tuy nhiên, để đánh giá chính xác thì không gì tốt hơn là để bé được cân đo bởi các chuyên gia sức khỏe.
Thông thường, những giai đoạn này sẽ chỉ diễn ra trong một vài ngày mà thôi, và mẹ không cần phải quá lo lắng. Nếu những biểu hiện kể trên kéo dài hơn mong đợi, mẹ nên đưa bé đi thăm khám để tìm lời khuyên của các chuyên gia, bởi có thể bé đang gặp trục trặc về sức khỏe.
“Cứu” con khỏi nguy cơ chậm phát triển
1. Chủ động theo dõi các giai đoạn phát triển của con
Có một sự thật là trẻ sơ sinh và trẻ tập đi có tốc độ phát triển của riêng cá nhân mình. Hầu hết các bé vẫn trải qua các mốc phát triển giống nhau, chỉ một số ít phát triển chậm hơn hoặc nhanh hơn so với các bạn cùng tuổi. Điều đó nói lên rằng có những cột mốc chuẩn cho sự phát triển ở từng độ tuổi. Đối chiếu giữa các mốc này trong các giai đoạn phát triển của trẻ và ở từng độ tuổi, ta có thể đánh giá tương đối chính xác về sự phát triển cụ thể ở các giai đoạn phát triển của trẻ cũng như biết khi nào cần phải can thiệp.
Ngay khi bé vừa ra đời, bạn đã phải kiểm tra các biểu hiện gắn liền với sự phát triển của bé
2. Tìm kiếm sự giúp đỡ từ các chuyên gia
Thay vì thắc mắc trẻ biết ngồi trước hay bò trước, tại sao trẻ chậm ngồi, chậm bò hay chậm đi…, ba mẹ cần chủ động đưa con đến gặp bác sĩ nếu thấy bé có bất thường nào trong quá trình phát triển. Việc can thiệp sớm có thể giúp phát hiện các vấn đề tiềm tàng bao gồm tự kỷ, chậm nói, chậm phát triển hệ vận động. Sự can thiệp sớm giúp tạo ra những thay đổi rất lớn trong cuộc đời của một đứa trẻ.
Can thiệp sớm là gì?
Can thiệp sớm được biết đến như một hệ thống các biện pháp nhằm giúp các trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ chậm phát triển hoặc bị khuyết tật. Can thiệp sớm giúp bé có đủ khả năng để học được các kỹ năng quan trọng trong 3 năm đầu đời như:
Kỹ năng vận động (vươn, lăn, bò, đi)
Khả năng nhận thức (suy nghĩ, học hỏi, giải quyết vấn đề)
Giao tiếp (nói, nghe, hiểu)
Kỹ năng xã hội/ cảm xúc (chơi đùa, cảm giác an toàn và hạnh phúc)
Tự giúp đỡ bản thân (ăn uống, mặc quần áo…)
Khi bé đã được kiểm tra, đánh giá, các chuyên gia sẽ đưa ra các biện pháp để giúp đỡ cho bé trên các phương diện khác nhau như:
Cung cấp thiết bị hỗ trợ
Dạy trẻ học ngôn ngữ
Thuốc
Dinh dưỡng
Lao động trị liệu
Vật lý trị liệu
Tâm lý
Như vậy, bạn đã có câu trả lời cho câu hỏi “trẻ biết ngồi trước hay bò trước?”. Ngay khi không chắc chắn mình nên tiếp tục đợi hay hành động ngay để can thiệp vào sự phát triển của con, bạn đừng ngần ngại trao đổi với bác sĩ. Sự trao đổi sớm sẽ giúp mẹ giải tỏa được tâm lý bất an và tìm được sự hỗ trợ hợp lý và đúng lúc dành cho con mình.
Điều trước tiên mà mẹ cần nhớ là bé đang trong thời gian hình thành tính cách, cá tính và sự lựa chọn. Vì thế, việc cho bé ăn những thức ăn ngon miệng có trang trí đẹp mắt sẽ tạo thêm hứng khởi tham gia vào bữa ăn hơn là những món ăn chỉ chú trọng vào khía cạnh dinh dưỡng đơn thuần.
Ngay từ bước khởi đầu là ăn dặm, mẹ đã có thể thấy bé đưa ra những lựa chọn của riêng mình
Đúng giờ, đúng giờ và đúng giờ
Ăn ngon không chỉ là một cảm xúc, đó còn là một thói quen nữa. Vì thế các bữa ăn chính và phụ trong ngày phải đúng giờ. Không nên cho bé ăn ngay trước khi đi ngủ vì thức ăn khó tiêu sẽ làm bé đầy bụng và khó chịu.
Trong ngày, ngoài 3 bữa ăn chính, bạn có thể cho bé ăn thêm 2 hoặc 3 bữa phụ. Ví dụ như các loại bánh làm từ bột gạo hay vài lát trái cây tươi hay trái cây sấy khô mềm, vài lát bánh sandwich, một ít sữa chua, một miếng phô-mai, bánh bích quy không đường, bánh quy giòn hoặc bánh mì que.
Gần đến giờ ăn, không nên cho bé uống quá nhiều nước trái cây vì sẽ làm bé no và không muốn ăn. Thay vào đó mẹ có thể cho bé uống nước lọc và tập cho bé bỏ dần thói quen lúc nào cũng mang chai nước bên mình để uống liên tục không ngừng.
Hãy để bé quyết định bé ăn bao nhiêu là vừa đủ, bé biết khi nào mình đói và khi nào đã ăn đủ.
Bữa ăn cũng cần phải đẹp
Mẹ có thể cắt bánh sandwich thành hình ngôi sao, hình các con thú hay hình trái tim… Nếu bé thích ăn mì ống, bạn có thể trang trí thành hình con ốc, hay hình các chữ cái, điều này sẽ làm bé thích thú hơn khi ăn.
Súp-lơ và bông cải trông giống hình thù như những cái cây, nên mẹ có thể tạo ra “khu vườn vui nhộn’’. Mẹ cũng có thể khoét những lỗ nhỏ trên bánh mì, sau đó bỏ một ít trứng luộc vào lỗ, giả vờ như trứng đang “trốn’’ trong hang!
Trang trí thức ăn trên đĩa thành hình khuôn mặt cười, sử dụng những thức ăn khác nhau để tạo những nét mặt khác nhau hay bạn cũng có thể tạo ra những trò chơi của riêng bạn để thưởng cho bé mỗi khi bé ăn được một muỗng (thìa). Bạn cũng có thể thử tạo ra một cuộc píc-níc trong nhà với tấm bạt trải trên sàn nhà cùng thức ăn được trải đều ra.
Đừng quá lo lắng về sự bừa bộn và lấm lem của bé, bé có thể ăn nhiều hơn nếu để bé tự xúc, vì thế bạn hãy xem như là bé đang chơi trong khi ăn.
Hãy để bé cùng tham gia chuẩn bị món ăn
Em bé thường thấy hứng thú hơn nếu được tham gia vào việc đi chợ, nấu nướng hay chọn thực phẩm mà bé thích ăn. Khi đi mua thức ăn, hãy hỏi bé xem cà rốt ở đâu, cà chua ở đâu để bé chỉ chỗ cho bạn lấy và hãy nhớ khen ngợi bé khi bé chỉ đúng. Bạn cũng đừng quên nhắc bé rằng món bé đang ăn được nấu từ những thứ bé đã tự chọn mua ở siêu thị.
Bé còn quá nhỏ để có thể tham gia vào việc phụ bếp, nhưng bé có thể ngồi xem bạn nấu, quan sát và lắng nghe bạn khi bạn gọt vỏ, cắt nhỏ nguyên liệu để chuẩn bị nấu ăn.
Hãy hỏi bé xem bé thích ăn loại rau nào, thích uống thức uống gì và bé sẽ rất thích thú khi được tham gia vào quá trình chuẩn bị món ăn.
Hãy tôn trọng bé như một người lớn
Như đã nói ở phần mở đầu, bé tuy còn nhỏ nhưng đã có khẩu vị riêng với món ăn yêu thích riêng của mình. Hãy chắc rằng món ăn được tạo ra theo cách mà bé thích. Mẹ cũng đừng đi quá đà trong việc sáng tạo ra những món ăn mới. Bé luôn cần có thời gian để làm quen với hương vị mới. Mẹ thử sắm cho bé bộ đồ ăn mà bé yêu thích như đĩa, muỗng (thìa), ly (cốc)… Cách này sẽ khiến bé thích thú và chịu ngồi xuống dùng bữa nhiều hơn đấy!
Từ 3 tháng, các bé đã có thể ngủ xuyên đêm và đây cũng chính là thời điểm thích hợp để rèn thói quen ngủ điều độ cho bé
Ngày đầu tiên: Phân biệt ngày – đêm
Để bé ngủ ngon hơn mỗi tối, mẹ đánh thức bé dậy sớm và đúng giờ vào mỗi ngày, duy trì thói quen này đều đặn. Để làm được điều này, cũi hay giường ngủ của bé phải được đặt gần cửa sổ. Hãy kéo rèm lên và ánh sáng trời sẽ giúp bé mau tỉnh táo. Từ đó, bé sẽ hiểu rằng buổi sáng là lúc phải thức dậy và buổi tối là giờ đi ngủ.
Ngày 2: Ghi nhớ
Để con duy trì được thói quen ngủ, mẹ hãy lặp lại trật tự của ngày đầu tiên. Lưu ý, khi cho bé bú đêm, mẹ không nên nói chuyện hay hát hoặc đụng vào người bé mạnh, điều này sẽ khiến bé tỉnh giấc và tưởng rằng đây là lúc tiếp tục chơi đùa. Ngược lại vào ban ngày khi bé bú, bạn có thể đùa giỡn và nói chuyện thoải mái. Trước khi cho con ngủ, mẹ nên tắm cho bé bằng nước ấm và hát ru để bé ngủ ngon hơn.
Ngày 3: Cố định giờ ngủ
Để bé ngủ ngoan và đều đặn, mẹ cần nhớ rằng giờ đi ngủ cũng quan trọng như giờ thức dậy. Vào một giờ cố định buổi tối, mẹ hãy đặt bé vào giường. Có thể, bé sẽ chưa muốn ngủ và quấy khóc trong lúc khởi đầu, nhưng mẹ hãy kiên nhẫn và mạnh mẽ lên nhé. Sớm thôi, bé sẽ ngủ đúng giờ mà mẹ muốn.
[inline_article id=102104]
Ngày 4: Trị bệnh mè nheo
Có thể ngày thứ tư bé vẫn khóc và không chịu ngủ. Nhưng mẹ cũng không nên mềm lòng vì bé sẽ biết mình có thể “uy hiếp” mẹ bằng tiếng khóc. Một chút quyết tâm sẽ giúp mẹ trị được thói quen vòi vĩnh đó.
Ngày 5: Quen với nhịp sinh hoạt mới
Đến ngày hôm nay, bé đã bắt đầu đi vào lịch ngủ một cách thoải mái hơn. Nếu bé vẫn khóc thì nên kiểm tra xem bé có bị đói, ướt tã hay gặp bất kỳ khó chịu nào không. Nếu không, mẹ không cần thiết phải bế bé ra khỏi giường. Bé cũng đã hiểu rằng khóc lóc không mang lại kết quả.
Ngày 6: Giấc ngủ trọn đêm
Mẹ chỉ cần điều chỉnh nhiệt độ phòng phù hợp với bé. Nếu thỉnh thoảng con có khóc một chút, mẹ có thể vỗ về nhưng đừng nên bế bé lên. Thay vì quay lại chuỗi ngày vất vả trước đây, mẹ nên ngủ lấy sức.
[inline_article id=146]
Ngày 7: Thử thách hoàn thành
Giờ đây, cả mẹ và bé đều có thể ngủ một đêm ngon lành trọn vẹn. Lưu ý, những điều kiện như môi trường xa lạ, nhiệt độ hay bệnh tật có thể khiến bé khó ngủ. Tuy nhiên, nếu bé khỏe và không có những tác động từ thời tiết hay môi trường xung quanh, mẹ chỉ cần duy trì thói quen ngủ kể trên thì bé sẽ lại ngủ ngon mà thôi.