Con em năm nay 3.5 tuổi . cháu thường hay nói theo nhưng câu của người lớn nói với bé,
vd: me nói: con CHÂU CHẤU này hư quá. thì cháu cũng đáp trả . con me này hư quá.
có bác nào có kinh nghiệm chỉ em với
Category: Sự phát triển của trẻ
Đây là nơi cung cấp các kiến thức chăm sóc cho sự phát triển của trẻ từ giai đoạn sơ sinh đến tuổi dậy thì, từ sức khỏe thế chất đến tinh thần, đảm bảo con lớn lên khỏe mạnh, toàn diện.

1/ Nghiên cứu từ trước
Cho con bú thuộc về bản năng nhưng nếu đã tập luyện và nghiên cứu từ trước, các mẹ hẳn sẽ tự tin hơn nhiều đúng không? Mẹ nên đầu tư thời gian để học hỏi trước khi đón bé về nhà. Có rất nhiều tài liệu bạn có thể tham khảo từ sách cho đến các website. MarryBaby cũng có rất nhiều bài viết dạy mẹ cách cho con bú hiệu quả.
>>> Mách mẹ cách chọn áo ngực cho con bú
2/ Tham gia các lớp học tiền sản
Trước ngày sinh, mẹ có thể chủ động đăng ký tham gia các lớp học tiền sản. Các chuyên gia sẽ hướng dẫn bạn những kiến thức cần thiết trong thai kỳ và quá trình chăm sóc trẻ sơ sinh. Mẹ cũng có cơ hội thực hành, giao lưu và trao đổi kinh nghiệm.
3/ Bắt đầu từ sớm
Trong khi một số chuyên gia khuyên bạn nên cho con bú ngay khi vừa sinh xong. Một số khác lại cho rằng sau quá trình “vượt cạn” vất vả, bạn cần nghỉ ngơi một thời gian trước khi cho con bú. Tuy vẫn chưa có ý kiến thống nhất nhưng hầu hết các chuyên gia đều cho rằng, bạn nên cho con bú càng sớm càng tốt. Nên nói trước với các điều dưỡng trong trường hợp bạn muốn cho con bú ngay lập tức sau khi sinh.
Một lưu ý dành cho me: Thời gian đầu khi vừa sinh xong, nếu sữa vẫn chưa về, mẹ có thể sử dụng dụng cụ hút sữa hoặc nhờ sự giúp đỡ từ anh xã.
[inline_article id=57755]
4/ Kích thích phản xạ
Theo bản năng, bé cưng sẽ biết cách mở miệng và lúc lắc đầu khi bé đói. Để bắt đầu cho con bú, mẹ có thể dùng tay vuốt nhẹ vào má bé. Bạn vuốt má bên nào bé sẽ quay ngay sang bên đó. Mẹ cũng có thể dùng đầu ti đảo quanh qua miệng của nhóc con để dành sự chú ý của con. Chú ý để đầu ti của mẹ nằm “ngoan ngoãn” trong miệng của con nhé!
5/ Tăng cường thực đơn
Đối với những mẹ cho con bú, bạn nên tăng thêm 600 calo cho khẩu phần mỗi ngày của mình. Không cần quá nhiều, chỉ cần thêm hai bữa phụ với những món ăn vặt thân thiện với sức khỏe như trái cây, phô mai ít béo… Tăng cường bổ sung các loại vitamin và dưỡng chất cần thiết như trong thai kỳ. Đặc biệt chú ý uống thêm nhiều nước.
[inline_article id=33975]
6/ Massage ngực thường xuyên
Những tuyến sữa sẽ hoạt động tốt hơn nếu được massage thường xuyên hơn. Xoa nhẹ nhàng vòng quanh bầu ngực mỗi bên 10 phút. Khi đang cho con bú một bên, mẹ có thể dùng tay massage bên còn lại. Chú ý. không nên sử dụng quá nhiều lực ở tay.
Ngoài ra, trước khi cho con bú, mẹ có thể dùng một chiếc khăn ấm lau sơ bầu ngực. Cách này vừa giúp vệ sinh sạch sẽ vừa tăng lượng sữa cho con.
>>> Xem thêm thảo luận có chủ đề liên quan:
MarryBaby

1/ Có cần thiết để lên hẳn một lịch trình sinh hoạt cho trẻ sơ sinh?
Nhu cầu của trẻ sơ sinh không có gì quá phức tạp, ăn, chơi, rồi ngủ. Tuy nhiên, để biết nhu cầu của bé cho từng mảng là bao nhiêu quả là thách thức đối với mẹ. Chưa kể, mẹ còn phải cân bằng giờ giấc sinh hoạt của trẻ với bản thân và cả các thành viên khác trong gia đình.
Thực tế, khi duy trì một thói quen hoặc lịch trình sinh hoạt chuẩn cho bé, cuộc sống trở nên muôn phần dễ dàng hơn. Kế hoạch này cũng chính là phương pháp để ba mẹ dạy cho trẻ kỹ năng quản lý, kỷ luật từ sớm. Ai bảo trẻ sơ sinh không biết gì nào? Việc áp dụng một khung giờ chuẩn ngày qua ngày, bé cũng cảm nhận và biết mong chờ đấy. Chẳng hạn, cứ theo lịch, sau khi ngủ dậy, bé sẽ biết mình sắp được bú, sau đó chơi và được bồng đi loanh quanh.
[inline_article id = 64423]
Trẻ sơ sinh chưa biết nói, chưa biết đi, chưa giỏi kỹ năng cầm nắm, vì vậy ít nhất trẻ cũng muốn mình thông thạo ở lĩnh vực nào đó, chẳng hạn luôn biết trước những điều sắp xảy ra với mình. Lên lịch chuẩn cho giờ giấc sinh hoạt của con, đồng nghĩa mẹ biết lúc nào nên cho con ăn, cho con ngủ. Như vậy, bé sẽ không bao giờ phải khó chịu vì buồn ngủ, đói, khát, và lúc nào cũng đủ năng lượng để khám phá, học hỏi thế giới xung quanh.
Thêm một điểm cộng cho việc lên lịch trình sinh hoạt cho trẻ sơ sinh: Khi mẹ phải quay trở lại công việc sau 6 tháng thai sản và nhờ người khác trông bé, với thói quen thông thường hằng ngày, bé sẽ yên tâm hơn và không bị bỡ ngỡ vì phải xa mẹ. Người trông bé cũng dễ dàng hơn vì biết khi nào bé muốn ăn, ngủ hay chơi.
2/ Khi nào mẹ có thể bắt đầu lên lịch trình sinh hoạt cho trẻ sơ sinh?
Thông thường, trẻ sơ sinh đã sẵn sàng cho khung giờ chung vào khoảng giữa 2-4 tháng tuổi. Ngủ và thói quen ăn uống ở hầu hết trẻ đều trở nên nhất quán và dễ dự đoán sau 3-4 tháng. Thời điểm này rất lý tưởng để mẹ khuyến khích bé “tuân theo” kỷ luật.
Để bé dần quen với khung giờ vàng, mẹ cần thời gian, kiên nhẫn và nhẹ nhàng. Theo dõi việc ăn uống, ngủ, nghỉ của trẻ để nắm được nhịp điệu sinh hoạt và lên kế hoạch phù hợp cho bé. Vào những ngày đầu tiên sau sinh, mẹ đã có thể bắt đầu chiến lược theo dõi nhu cầu ăn của bé, khi nào bé đi tè, ị, ngủ trong bao lâu, cứ như vậy đến khoảng 2-3 tháng.
Nếu muốn đưa bé vào giờ giấc chuẩn từ sớm, mẹ đã có thể bắt đầu từ 1 tuần tuổi. Miễn là bé được bú no, đủ lượng sữa mẹ hay sữa công thức khuyến cáo hằng ngày. Giấc ngủ của trẻ sơ sinh cũng rất quan trọng. Tốt nhất, mẹ nên cố gắng đáp ứng những nhu cầu mà bé đang cố gắng truyền đạt. Nhất là khi bé còn quá bé, mẹ nên du di nhiều chút. Nếu bé khóc đòi ăn dù đã ăn 1-2 tiếng trước, nếu bé không buồn ngủ nhưng muốn chơi khi đến giờ đi ngủ, mẹ vẫn nên đáp ứng và du di cho bé nhé!
[inline_article id = 62553]
3/ 3 lựa chọn về lịch trình chăm sóc trẻ sơ sinh chuẩn cho mẹ
-Lịch trình của ba mẹ: Thích hợp với ông bố, bà mẹ muốn rèn con vào khuôn khổ, kỷ luật từ sớm. Bạn chính là người ra kỷ luật, khi nào bé sẽ ăn, ngủ bao lâu, chơi ở nhà hay ra ngoài. Mẹ có thể tự đưa ra giờ giấc sinh hoạt cho bé dựa trên những nhu cầu hằng ngày đã được theo dõi và thiết lập từ lúc mới sinh.
-Lịch trình của bé: Dựa vào nhu cầu của bé, mẹ thiết lập một kế hoạch sinh hoạt chuẩn cho con. Điều này có nghĩa mẹ sẽ tìm kiếm những dấu hiệu từ trẻ để biết được bé muốn gì theo thứ tự, chứ không áp đặt một thời gian biểu do tự mình đặt ra. Sau vài tuần đầu tiên, hầu hết các bé đều hình thành thói quen ngủ, chơi và ăn uống rất trơn tru.
-Lịch trình kết hợp : Lịch trình này không đồng điệu và nhất quán ngày này sang ngày khác, mà là sự xáo trộn rất khoa học và thông minh để ba mẹ vừa thoải mái, trẻ cũng được đáp ứng nhu cầu đầy đủ. Điều này cũng đồng nghĩa mẹ phải “du di” cho trẻ rất nhiều trong giờ giấc sinh hoạt.
>>> Các thảo luận có cùng chủ đề:
MarryBaby

1/ Dấu hiệu của hội chứng Tourette
Có hai dạng máy giật ở người bị hội chứng Tourette: đơn giản và phức tạp.
• Đạng máy giật đơn giản chỉ ảnh hưởng đến một nhóm cơ. Người bị Tourette thường thể hiện sự máy giật lần đầu ở mặt (ví dụ, chớp mắt, chun mũi, hoặc trề môi) và sau đó có thể có máy giật ở các bộ phận khác trên cơ thể (co vai co, đá, ngoẹo đầu). Máy giật phát âm đơn giản bao gồm bao gồm hừ mũi, kêu ré, và ho.
• Máy giật phức tạp ảnh hưởng đến nhiều hơn một nhóm vận động. “Đó là một loạt các động tác máy giật, ví dụ như nháy mắt rồi nhún vai hoặc ho hay kêu ré,” Tiến sĩ Jerry Bubrick, nhà tâm lý học và là giám đốc cấp cao của Viên Tâm lý Trẻ em và Trung tâm Rối loạn Tâm trạng ở New York giải thích.
Mặc dù nhiều người thường đánh đồng Tourette với việc la hét những từ thô tục một cách không kiểm soát nhưng thực tế, chưa đến 2% người bị Tourette biểu hiện dạng máy giật này. Tourette có thể bao gồm bất kỳ sự kết hợp nào giữa các dạng máy giật với mức độ từ nặng đến nhẹ và có thể thay đổi theo thời gian.
Nhiều trẻ bị Tourette có những “dấu hiệu báo trước” trước khi cơn máy giật bắt đầu. Tiến sĩ Bubrick cho biết “Nó cũng giống như cảm giác ở mũi ngay trước khi bạn hắt hơi, và cách duy nhất để thoát khỏi nó là hắt hơi. Trẻ sẽ có cảm giác tương tự ở vị trí mà sự máy giật xảy ra, và sự máy giật là cách duy nhất để loại bỏ cảm giác đó.” Mặc dù hầu hết trẻ em không thể kiểm soát sự máy giật, một số trẻ có thể che giấu chúng cho đến khi tìm được một chỗ kín đáo.

Khoảng 5 đến 24% trẻ em ở tuổi đi học có sự máy giật nhưng không bị Tourette. Đây được gọi là “sự máy giật tạm” và thường kéo dài ít nhất 4 tháng và không quá một năm. Mẹ nên quan sát tần suất của sự máy giật, cường độ, cũng như mức độ ảnh hưởng đối với cuốc sống của trẻ. Trong trường hợp trẻ chỉ nháy mắt khi mệt mỏi và tình trạng này không ảnh hưởng đến cuộc sống ở nhà hay ở trường và tự biến mất sau hai tuần thì bạn chẳng có gì phải lo lắng. Nếu hiện tượng nháy mắt diễn ra thường xuyên hơn và bắt đầu khiến trẻ khó chịu hoặc trẻ bị bạn bè trêu ghẹo thì đã đến lúc bạn phải lo lắng.
2/ Nguyên nhân
Tourette là một tình trạng thần kinh xảy ra do rối loạn chức năng trong khu vực kiểm soát sự vận động ở não được gọi là hạch nền (basal ganglia). Một số nhà nghiên cứu cho rằng đến 85% các trường hợp là do yếu tố di truyền; 15% còn lại được cho là do những yếu tố như các biến chứng thai kỳ, chấn thương đầu, và ngộ độc carbon monoxide (CO). Xác suất mắc hội chứng này ở nam giới cao hơn 3 đến 4 lần so với nữ giới.
Căng thẳng không gây ra Tourette nhưng có thể làm trầm trọng thêm các triệu chứng. Với nhiều trẻ, sự máy giật tăng lên về tần số và mức độ nghiêm trọng khi căng thẳng, buồn chán, hoặc mệt mỏi. Tham gia các hoạt động, dù là thể thao hay trò chơi vi tính, đều có thể giúp làm giảm mức độ nghiêm trọng.
Có một mối tương quan chặt chẽ giữa Tourette và OCD (Rối loạn ám ảnh cưỡng chế). “Những đứa trẻ bị Tourette thường bị OCD, nhưng ngược lại thì không,” Tiến sĩ Bubrick cho biết. Trẻ bị Tourette cũng thường bị tăng động giảm chú ý (ADHD).
[inline_article id=61000]
3/ Điều trị
Tourette là được điều trị bởi một bác sĩ hoặc bác sĩ tâm lý với sự phối hợp của trẻ và phụ huynh. Có ba giai đoạn điều trị:
– Rèn luyện nhận thức. “Đầu tiên chúng tôi yêu cầu đứa trẻ và bố mẹ tiến hành ghi chép để họ có thể hiểu hơn về sự máy giật – khi nào xảy ra, có điều gì khác xảy ra vào cùng thời điểm, kéo dài bao lâu và đứa trẻ có khống chế được hay không,” Tiến sĩ Bubrick cho biết.
Trong giai đoạn này, đứa trẻ cũng được biết sự máy giật sẽ trông như thế nào đối với người ngoài. “Những đứa trẻ có thể biết chúng có sự máy giật, nhưng chúng không hiểu những người khác thấy gì.” Vì vậy bọn trẻ ngồi trước những gương và nhìn sự máy giật diễn ra. Theo Tiến sĩ Bubrick thì đây không phải là một trải nghiệm khó chịu đối với chúng: “Mục đích chỉ là để chúng nhìn thấy những gì mình đang trải qua.”
– Rèn luyện Thư giãn
Sự máy giật ít xuất hiện hơn khi cơ thể thư giãn, vì vậy trong giai đoạn này trẻ học các phương pháp để giảm căng thẳng và áp lực.
2 bài tập trẻ thường được dạy là hít thở sâu và thư giãn cơ từng bước. “Với những trẻ lớn hơn, chúng tôi thường thu âm những bài tập và chép vào điện thoại để chúng có thể nghe và thực hiện bất cứ khi nào,” Tiến sĩ Bubrick cho biết. Mỗi bài tập kéo dài 20 đến 25 phút, và ông khuyến nghị trẻ nên thực hiện một hay hai lần mỗi ngày.
“Nếu chúng luyện tập thường xuyên và đều đặn, trẻ sẽ bắt đầu có thể tự thư giãn mà không cần bản ghi âm. “Sau đó, khi chúng nhận ra rằng cơ thể mình đang căng thẳng, chúng có thể sử dụng những phương pháp của riêng mình để trở về trạng thái bình thường.” Việc này sẽ làm giảm các triệu chứng của chúng.
[inline_article id=21473]
– Tìm một phản ứng cạnh tranh
Sau khi bọn trẻ biết khi nào sự máy giật diễn ra và cách để thư giãn cơ thể thì chúng sẽ được học những gì phải làm thay vì máy giật. “Chúng tôi muốn chúng sử dụng chính những cơ bị ảnh hưởng để thực hiện những chuyển động ngược lại cho cảm giác muốn máy giật qua đi,” Tiến sĩ Bubrick cho biết. Ví dụ như hiện tượng nháy mắt: Khi nháy mắt, mí mắt hạ xuống; hành động ngược lại sẽ là giữ mắt mở to. “Khi các dấu hiệu báo trước xuất hiện, chúng tôi dạy bọn trẻ sử dụng kỹ thuật thở và mở mắt to nhất có thể trong một phút.”
Nói cách khác, “chúng tôi sẽ dạy cho não bộ đánh lừa sự máy giật,” Tiến sĩ Bubrick cho biết. Điều này không hề dễ dàng, và đòi hỏi rất nhiều sự kiên nhẫn và luyện tập. Nhưng phần thưởng là ít máy giật hơn và dễ hòa đồng hơn. Quá trình điều trị thường kéo dài từ 10 đến 15 tuần, mỗi tuần điều trị một buổi, và sau đó đứa trẻ đã có những công cụ có thể sử dụng để kiểm soát sự máy giật tốt hơn.
MarryBaby

1. Cho bú sai tư thế
Điều này có nghĩa là bé không được đặt vào đúng tư thế khi bú. Mẹ hãy thử ngồi trên giường hoặc ghế sofa, sau lưng là một chiếc gối mềm. Sau đó, đặt bé lên bụng để bé có thể bám chắc vào người mẹ hơn.
Nếu chỉ đang ngồi trên ghế bình thường, mẹ nên đẩy phần hông ra trước và ngả lưng về phía sau khi cho bé bú. Để đưa ti mẹ vào miệng bé, siết ngực nhẹ nhàng và đặt ngón cái song song với môi bé.
2. Không kiểm soát khiến bé ngạt sữa
Một số phụ nữ có phản xạ phóng sữa nhanh khiến bé bị sặc và ngạt vì sữa mẹ chảy quá nhanh. Để làm chậm dòng chảy của sữa, đặt lòng bàn tay lên ti và nhấn ngược về phía ngực sau khi đếm đến 5. Cách này giúp kiềm hãm dòng chảy của sữa. Mẹ có thể áp dụng từ 2-5 lần trước khi cho bé bú.
[inline_article id=34003]
3. Cho con bú khi bé đang gà gật
Nếu bé ngủ gật khi bú ngay khi mẹ đặt lên ngực, ti của mẹ sẽ không vào đủ sâu trong miệng bé để kích hoạt trạng thái mút sữa. Bé cũng có thể ngủ gật nếu mẹ không đáp ứng được lượng sữa dồi dào và liên tục để bé tiếp tục bú. Mẹ có thể dùng 1 tay giữ bầu ngực bé bú theo hình chữ C và thực hiện thao tác xoa bóp trong 5 giây.
4. Chỉ cho con bú một bên
Hai bên ngực và ti mẹ không đồng nhất nên chuyện bé thích bên này hơn bên kia là rất bình thường. Bí quyết nhỏ cho mẹ là hãy tập trung sự chú ý của bé, đặt bé vào bầu ngực bé thích, sau đó nhẹ nhàng chuyển bé sang bầu ngực bên kia trước khi bé kịp nhận ra.
Nếu bé vẫn khỏe mạnh, việc bú một bên sẽ không trở thành vấn đề lớn. Mẹ có thể vắt/bơm lượng sữa thừa ra ngoài hoặc cứ để bên ngực đó cạn sữa. Tuy nhiên, điều này có thể khiến ngực mẹ mất cân xứng rõ rệt sau khi bé dừng bú.
[inline_article id=913]
5. Để con cắn ti mẹ
Với các bé lớn, nếu được đặt đúng tư thế, răng bé sẽ không cắn được ti mẹ. Tuy nhiên, nếu bé vẫn cố cắn, mẹ đừng phản ứng quá mạnh hoặc đột ngột vì bé có thể tiếp tục làm như vậy để xem phản ứng của mẹ trong lần bú kế tiếp. Các chuyên gia gợi ý mẹ nên đặt bé xuống và từ tốn nói “Con làm đau mẹ đấy”. Sau đó, mẹ rời phòng trong vài giây, nhìn bé, thủ thỉ: “Không được cắn nữa nhé” và tiếp tục cho bé bú.
Ngoài ra, mẹ có thể cho bé cắn thử món gì đó hơi lạnh trước khi cho bú để phòng trường hợp bé cắn ti mẹ.
Bé thường ngậm ti mẹ chặt hơn khi đã bú no và bắt đầu buồn ngủ. Ngay khi thấy bé ngủ gật khi bú, hãy đặt ngón út vào một bên miệng và nhẹ nhàng lấy ti mẹ ra khỏi miệng bé.
>>> Xem thêm thảo luận có chủ đề liên quan:

1/ Giao tiếp sớm với trẻ (Trẻ từ 0 đến 2 tuổi)
– Nghe mẹ nói nè: nhằm dạy cho trẻ biết phân biệt âm thanh từ sớm bằng cách nói chuyện với bé. Bạn cho bé nằm/ngồi/… đối diện bạn rồi từ từ tạo ra những âm thanh đơn giản khác nhau như A, O… trước khi chuyển sang các phụ âm như D,M và đừng quên nâng đỡ phần đầu bé cẩn thận. Lúc này, khi phát âm, môi của bạn tạo hình và di chuyển hơi “quá” một chút để bé dễ nhận diện và bắt chước theo. Ngoài ra, bạn có thể sử dụng các loại thiết bị hỗ trợ phát âm kèm hình ảnh minh họa cho bé xem cũng tốt. Bắt đầu từ tháng thứ 9, bạn có thể áp dụng phương pháp này cho bé.
– Thấy gì nói nấy: Việc học qua hình ảnh sẽ có hiệu quả tích cực đối với bé bị Down nhưng việc ghi nhớ được những thông tin được truyền tải lại là thách thức lớn cho bé. Đầu tiên, bạn nên giúp trẻ học tên của các vật dụng quen thuộc bằng cách nói kết hợp với cử chỉ đơn giản. Ví dụ: khi bạn nói “điện thoại” thì bạn có thể làm hành động đặt tay vào tai mình hay “uống” rồi bạn giả vờ đưa bình hay ly nước lên miệng.
– Tập trung cao độ: Hướng sự chú ý của bé vào một đồ vật nào đó như đồ chơi hay bức tranh bé thích rồi khuyến khích bé nhìn vào đồ vật mà bạn đang đề cập đến. Dần dần, bạn kéo dài thời gian tập luyện để cải thiện khả năng tập trung, phối hợp cũng như giúp bé học ngôn ngữ nhanh hơn.
[inline_article id=9522]
– Phối hợp nhịp nhàng: Việc phát triển kỹ năng giao tiếp phụ thuộc nhiều vào khả năng phối hợp giữa người nghe và người nói. Lăn một trái banh tới lui là một bài tập đơn giản và phù hợp để thực hiện kỹ năng này. Khi lăn trái banh, bạn nên hô to “đến lượt của mẹ” và khi bé đẩy trái banh ngược lại bạn, bạn hô to tên của bé “đến lược của con”. Khi bé có thể chỉ và nói được tên của mỗi lượt lăn banh, hãy giúp bé chỉ vào bé và nói tên của bé hay “con”.
2/ Phát triển từ vựng cho trẻ (Trẻ từ 2 đến 3 tuổi)
– Con muốn…: Dạy bé hiểu được ý nghĩa của biểu tượng hay dấu hiệu. Điều này sẽ giúp bé phát triển vốn từ để giao tiếp khi bé đang trong giai đoạn phát triển ngôn ngữ. Các chuyên gia khuyến khích cho trẻ ở độ tuổi này nhìn thấy đồ vật thật hay hình ảnh minh họa phù hợp với hành động. Chụp hình lại đồ vật hay hành động bé thích. Khi bé muốn hỏi/ xin bạn thứ gì, bé có thể chỉ hay đưa cho bạn tấm hình thể hiện mong muốn của bé và luôn luôn động viên bé nói ra từ mà bé muốn nói.
– Cầu Vồng sắc màu: Đây là phương pháp giúp bé nhận biết về màu sắc. Nhóm những đồ vật có cùng màu sắc vào một chỗ, ví dụ như con gấu bông màu đỏ, cái áo màu đỏ, cái ly mà đỏ… rồi cho vào 1 cái túi màu đỏ. Với những hành động trực quan sinh động như vậy sẽ giúp bé dễ dàng nhận ra được “luật chơi”. Nếu bé đang ở giai đoạn nói được 1 từ, khi bạn lấy đồ vật ra, hãy nói to màu của đồ vật đó như “xanh”, “ đỏ”… Nếu bé nói được 2 từ, bạn sẽ kết hợp màu và tên đồ vật như “ly đỏ”, “ banh vàng”…
[inline_article id=4788]
– Nói, Lặp lại và Thêm từ: Với những bé mắc hội chứng Down, bé thường cần nhiều thời gian “chuẩn bị” hơn để có thể nói thành cụm nhiều từ. Nghiên cứu cho thấy các bé sẽ có vốn từ vựng khoảng 100 từ (bao gồm từ và dấu hiệu) trước khi bé kết hợp các từ với nhau. Để chuyển từ giai đoạn nói 1 từ sang giai đoạn 2 từ, bạn có thể áp dụng kỹ thuật lặp lại rồi thêm từ. Đầu tiên, lặp lại từ bé vừa nói rồi bạn thêm 1 từ khác đi cùng với từ đó.
Ví dụ: khi bé nói “ăn”, bạn lặp lại “ăn” rồi nói thêm “ăn, ăn kem”. Việc lặp đi lặp lại là rất quan trọng trong việc dạy bé tập nói. Không nên thất vọng hay cảm thấy mệt mỏi khi phải làm điều này nhiều lần.
– Nhớ và Điền vào chỗ trống: Sử dụng các miếng card hình chữ nhật có màu sắc khác nhau. Khi nói 2 từ “ăn kem”, mẹ giơ 2 miếng màu card màu hồng và màu xanh lên. Sau đó, bạn chỉ vào miếng màu hồng rồi nói “ăn” và miếng màu xanh nói “kem”. Tiếp theo bạn di chuyển 2 miếng card qua lại rồi cho bé thay đổi trật tự từ theo màu sắc. Khi thấy bé khá hơn, bạn sẽ tăng lượng từ cũng như tấm card lên. Đây là phương pháp giúp bé phát triển khả năng ghi nhớ và xúc giác của bé.
3/ Mở rộng từ vựng, chữ cái và âm thanh (Trẻ từ 3 đến 5 tuổi)
– Mẹ con cùng kể chuyện: Ở lứa tuổi này, ngôn ngữ bé sử dụng sẽ liên quan nhiều đến hoạt động hàng ngày. Vì vậy ngôn ngữ được học sẽ mang tính chức năng nhiều hơn, thực tiễn và thú vị hơn. Vốn từ vựng của bé sẽ được mở rộng thêm với những từ chỉ hành động như ngồi, uống, rửa tay, đánh răng… Bạn có thể tổ chức một buổi tiệc nhỏ hay hoạt động tắm cho búp bê, các con thú cưng đồ chơi bé thích (bạn một con và bé một con) và miêu tả những gì diễn ra trong bữa tiệc hay hoạt động đó. Khuyến khích bé là người dẫn chuyện để bé có cơ hội nhớ lại, tưởng tượng ra các hoạt động. Thỉnh thoảng bạn nên hỏi xem bé đang làm gì và tập cho bé dùng cụm 2 đến 3 từ như búp bê uống, mẹ tắm Teddy…

– Giỏi lắm! Con nói được (từ mới) rồi: Nhằm khai thác khả năng ghi nhớ thông qua hình ảnh trực quan của bé, bạn nên khen ngợi để nâng cao tinh thần tự tôn cho bé và sử dụng ngôn ngữ biểu cảm. Bạn có thể dán một tờ giấy A4 dán ở một vị trí nổi bật trong nhà để mỗi lần bé nói được một từ mới hay một từ lâu rồi bạn mới được nghe lại, bạn ngừng ngay những việc đang làm và nói với bé rằng “Giỏi lắm! Con nói được (từ mới) rồi!” rồi viết từ đó lên tờ giấy “yêu thương” đã được chuẩn bị sẵn. Sau đó bạn in từ đó được viết bằng chữ viết thường trên một tấm card kích thước 12*15 cm. Tiếp theo, bạn đưa tấm card cho bé thấy và đồng thời đọc to từ đó lên. Cứ thế, lần lượt bạn đọc từ đó và cho bé xem tấm card. Hoạt động này sẽ khuyến khích bé nói được từ mới và bổ sung thêm vốn từ vựng của mình.
– Vòng tròn biết nói: Phát cho bé những card hình tròn nhiều màu sắc và phía sau mỗi tấm card, bạn viết một chữ cái rồi đặt vòng tròn xuống, mặt có chữ ở dưới. Sau đó bạn hỗ trợ bé lật từng hình tròn và đọc to chữ cái đó lên. Nếu bé phát âm chưa đúng, bạn cần chỉnh sửa ngay lúc đó và giảm dần việc chỉnh sửa này. Bắt đầu với một vài hình tròn với những chữ cái bé đã ít nhiều biết trước đó rồi từ từ bổ sung thêm chữ cái mới. Hầu hết các bé chậm phát triển sẽ bắt đầu học chữ cái từ 3 tuổi rưỡi đến 5 tuổi.
– Cùng đọc nào: Trẻ em có thế mạnh ghi nhớ qua hình ảnh trực quan. Nhờ vậy, bạn có thể dạy đọc từ sớm cho những bé có dấu hiệu chậm phát triển trí tuệ, khi bé có thể hiểu từ 50 đến 100 từ và có thể nối hay lựa chọn hình ảnh. Mẹ có thể tạo ra những trò chơi với các từ mà bạn quan sát thấy bé quan tâm, thích thú như tên của các thành viên trong gia đình hay thức ăn hay động vật. In 2 từ có liên quan nhau như Ba và Mẹ với khổ chữ lớn và ép plastic (nếu muốn). Tiếp theo bạn sẽ in hay viết 2 chữ này riêng biệt trên 2 tấm card nhỏ hơn và ép plastic (nếu muốn). Chuẩn bị xong, bạn sẽ đặt tấm card lớn có 2 từ viết cùng nhau xuống, trước mặt bé và bé có thể nhìn thấy chữ rồi giúp bé sắp xếp 2 tấm card nhỏ cho đúng vị trí như trong tấm card lớn. Dần dần bạn sẽ tăng dần lượng từ bé cần học lên rồi làm tương tự.
MarryBaby

1. Bệnh eczema ở trẻ em là gì?
Bệnh eczema ở trẻ em (bệnh chàm) là tình trạng da bị viêm mãn tính và làm xuất hiện những triệu chứng như đỏ da, khô, bong vẩy và ngứa. Hiện nay, vẫn chưa tìm ra nguyên nhân chính xác gây ra bệnh này. Tuy nhiên, chàm thường phổ biến ở những đối tượng có tiền sử gia đình bị bệnh rối loạn dị ứng như hen suyển hay sốt mùa hè.
50% trẻ em mắc bệnh này sẽ phát triển thành bệnh hen suyễn hay sốt mùa hè trong suốt thời thơ ấu. Một số yếu tố như thời tiết, thực phẩm hay dị ứng môi trường là tác nhân ảnh hưởng đến bệnh chàm và làm cho vùng da bị đỏ thêm nghiêm trọng.
Tuy nhiên, bệnh eczema ở trẻ em không lây truyền từ người này sang người khác.
Các trẻ nhỏ thường dễ mắc bệnh chàm, trong đó có khoảng 15% là trẻ sơ sinh. Bệnh thường sẽ bắt đầu trong năm đầu đời và trước khi bé được 5 tuổi. Eczema thường kéo dài hoặc mãn tính nhưng trong nhiều trường hợp, bệnh sẽ khỏi trước khi bé trưởng thành. Tùy cơ địa mỗi người mà bệnh có thể nặng nhẹ khác nhau và các triệu chứng có thể tái đi tái lại.
2. Bé bị chàm có mấy loại phổ biến?
Hiện có ba loại bệnh chàm Eczema phổ biến:
• Viêm da eczema dị ứng: Là tình trạng da bị phát ban mãn tính ảnh hưởng đến trẻ em trong các gia đình có tiền sử dị ứng. Vùng da phát ban thường khô và ngứa, làn da trở nên đỏ, sưng tấy và nổi vảy. Khi gãi, trên da sẽ xuất hiện những đường nứt, đứt đoạn và nặng hơn sẽ dẫn đến tình trạng nhiễm trùng thứ cấp và sẽ để lại sẹo.
• Viêm da eczema do tăng tiết bã nhờn (viêm da tiết bã): Bệnh thường xuất hiện ở trẻ sơ sinh được 3 tháng tuổi. Không giống như tình trạng viêm da dị ứng ở trên, viêm da tiết bã sẽ làm cho vùng da bị viêm khô, đỏ và hơi nổi vẩy nhưng lại không ngứa. Vùng da dễ bị viêm thường là mặt, cổ, ngực, những vùng nếp gấp của da và khu vực mang tã. Với trẻ sơ sinh, chàm eczema ở trẻ sơ sinh có thể phát triển thành những mảng vẩy màu vàng trên da đầu mà dân gian thường gọi là cứt trâu. Nhìn chung bệnh này sẽ khỏi sau một vài tháng.

• Viêm da do tiếp xúc: Bệnh này xảy ra do da được tiếp xúc với một lượng hóa chất nhất định như niken, mỹ phẩm, kem và xà phòng cũng như các chất có khả năng gây kích ứng da. Vùng da bị viêm sẽ nổi đỏ và nhìn khá khó chịu, có khi nó sẽ làm xuất hiện một số mụn sẩn/ thịt hoặc mụn nước. Da nổi mẩn đỏ sẽ thường ngứa, có thể hơi ẩm ướt và phồng rộp. Cảm giác tương tự như khi da tiếp xúc với cây thường xuân.
3. Trẻ bị eczema có những triệu chứng gì?
Bệnh eczema ở trẻ em thường có biểu hiện ở da là: Nổi đỏ thành từng mảng, khô hơn vùng da bình thường và dễ bị viêm nhiễm. Nếu nặng hơn, vùng da bị viêm sẽ đỏ hơn, ứa nước, nhạy cảm và dễ bị kích ứng bởi một số loại xả phòng, bột giặt, nước hoa. Hành động gãi khi chiến đấu với cảm giác ngứa ngáy chỉ làm cho tình trạng bệnh thêm tệ hại hơn và đi vào một vòng luẩn quẩn: Da bị nổi đỏ, ngứa, gãi và da lại đỏ hơn, ngứa hơn, gãi nhiều hơn…
[inline_article id=38260]
Trong khi đó, bệnh chàm ở trẻ sơ sinh sẽ thường khởi phát ở trên mặt, trán hoặc da đầu rồi dần lan rộng sang các bộ phận khác như tay, chân trước, cơ thể. Khu vực mang tã thường được “tha” vì ở những chỗ này bé thường xuyên được vệ sinh sạch sẽ và giữ khô ráo. Ở những trẻ lớn hơn, bệnh thường xuất hiện ở mặt sau đầu gối và bên trong khuỷu tay, xung quanh cổ tay và mắt cá chân. Những đối tượng bị bệnh chàm trong một thời gian dài thì vùng da bị tổn thương sẽ trở nên dày hơn, khô hơn và sẫm màu hơn, đây là hậu quả của việc gãi ngứa làm trầy xước da và những lần phát bệnh trước đây để lại.
4. Cách ngừa bệnh eczema ở trẻ em tái phát
Nhiều trường hợp eczema là do di truyền và không thể ngăn chặn được. Tuy nhiên với những bé bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu đời sẽ có thể tránh được một số trường hợp của bệnh chàm.
Để hạn chế bệnh bùng phát, bạn nên giữ trẻ ra khỏi bụi, phấn hoa, lông vật nuôi và một số loại thực phẩm nhất định. Tránh sử dụng các loại xà phòng có độ kiềm mạnh, chất tẩy rửa hoặc bất cứ thứ gì có thể gây kích ứng da. Không nên cho trẻ tắm quá thường xuyên vì sẽ làm cho da bé dễ bị khô. Thói quen chà xát hay làm khô da sau khi tắm cũng có thể làm da bé bị tổn thương và làm cho bệnh trở nên nặng hơn.
[inline_article id=14071]
Ngoài ra, bạn cũng cần lưu ý những điều dưới đây khi chăm sóc da bé để tránh bệnh tái phát:
- Thoa kem dưỡng ẩm cho con 2-3 lần một ngày, nhất là sau khi tắm, ngay cả khi bé chưa mắc bệnh eczema.
- Nên cho bé mặc đồ vải cotton mềm mại, rộng rãi để hạn chế việc cọ xát, gây kích ứng da.
- Khuyến khích bé uống nhiều nước để tăng cường độ ẩm trong cơ thể
- Thướng xuyên cắt móng tay cho bé để tránh trường hợp bé gãi, dễ làm trầy xước da.
- Nếu đi khám, các bác sĩ sẽ thường chỉ định cho uống thuốc kháng histamine để hạn chế cảm giác ngứa ngáy.
5. Hướng điều trị khi bé bị chàm

Dưới đây là những nguyên tắc mẹ cần lưu ý khi điều trị bệnh eczema ở trẻ em:
- Tránh xa những yếu tố gây kích ứng da
- Thường xuyên giữ ẩm cho da để giảm bớt tình trạng da bị khô
- Sử dụng thuốc làm giảm tình trạng viêm nhiễm khi cần thiết. Ngay cả khi bệnh chưa xuất hiện, mẹ nên thoa kem hoặc dầu dưỡng ẩm mỗi ngày.
- Thói quen sử dụng dầu tắm có thể giúp tăng cường độ mềm mại cho da để ngăn chặn các bệnh chàm bùng phát.
- Trong giai đoạn bệnh trở nên nặng hơn, mẹ có thể sử dụng thuốc mỡ hay kem steroid tại chỗ cho bé trong một thời gian ngắn. Nếu bệnh vẫn chưa thuyên giảm, bác sĩ sẽ cho sử dụng thuốc kháng histamine hay steroid đường uống.
- Khi bệnh chàm đã bị viêm nhiễm, bác sĩ có thể kê toa một số loại thuốc kháng sinh đường uống hoặc thoa khác. Trong một số trường hợp, trẻ sẽ cần làm xét nghiệm dị ứng để tìm ra nguyên nhân làm cho da bé nổi mẩn đỏ. Hướng điều trị sẽ thay đổi tùy thuộc vào mức độ nghiêm trọng của bệnh.
- Bé bị chàm mà gãi ngứa hay chà xát nhiều, vùng da tổn thương sẽ dễ bị nhiễm trùng. Lúc này, trẻ có thể bị sốt. Nếu bé còn kết hợp mắc bệnh thủy đậu hay nhiễm trùng do virus herpes, vùng da mẩn đỏ sẽ trở nên nghiêm trọng hơn. Trẻ cần được chuyển đến các cơ sở y tế gấp để được theo dõi và có biện pháp xử lý kịp thời.
Mẹ sẽ ngăn ngừa được bệnh eczema ở trẻ em tái phát nếu tránh được những yếu tố kích hoạt bệnh bé trở lại. Dù có vất vả một chút khi chăm sóc làn da mỏng manh của bé yêu nhưng nhìn con lớn khỏe mạnh thì mệt mấy mẹ cũng sẽ cam lòng!

1/ Uống viên bổ sung
Khi ăn chay, cơ thể bạn rất dễ thiếu hụt vitamin B12, canxi, sắt và kẽm. Điều này càng tăng cao khi bạn đang mang thai và cho con bú. Vì vậy, để bổ sung những dưỡng chất này, bạn có thể phải dùng thêm thuốc bổ sung vitamin. Trong quá trình mang thai, bác sĩ đã kê đơn bổ sung những loại thuốc này. Tuy nhiên, bạn nên đến kiểm tra lại lần nữa. Tùy từng giai đoạn và nhu cầu dinh dưỡng, thuốc của bạn sẽ có sự thay đổi.
2/ Tăng cường đạm
Không ăn thịt đồng nghĩa với việc cơ thể sẽ thiếu một nguồn cung cấp đạm khá dồi dào. Vì vậy, bạn nên tăng cường bổ sung đạm cho cơ thể thông qua các nguồn khác như gạo lứt, các loại hạt, đậu, bơ đậu phộng, các sản phẩm làm từ đậu nành… Nếu có thể, bạn nên thêm các thực phẩm làm từ sữa vào thực đơn hàng ngày của mình. Đó là nguồn cung cấp đạm và canxi khá lý tưởng.
[inline_article id=33975]
3/ Chú ý lượng canxi
Bổ sung canxi cho cơ thể với trứng và những thực phẩm làm từ sữa. Tuy nhiên, nếu bạn ăn chay triệt để, nghĩa là không động đến trứng và sữa bò, bạn có thể uống sữa đậu nành, chăm chỉ ăn rau quả và trái cây. Một số thực phẩm giàu canxi có thể kể đến như: cải thìa, cải xoăn, bông cải xanh, hạt hạnh nhân, các loại quả khô… Ngoài ra, thay vì dùng đường, bạn có thể sử dụng mật ong thay vì đường. Mật ong có chứa nhiều canxi tự nhiên.
4/ Thêm nguồn bổ sung B12
B12 là một trong những dưỡng chất quan trọng ảnh hưởng đến sự phát triển trí não của bé. Tuy nhiên, những mẹ ăn chay lại có nguy cơ cao bị thiếu hụt vitamin này. Mẹ nên chú ý tăng cường các loại thực phẩm chứa nhiều B12 như ngũ cốc, đậu nành, nấm men…
5/ Duy trì chế độ dinh dưỡng
Nghiên cứu các loại thực phẩm và công thức món ăn khác nhau giúp bạn chủ động bổ sung thêm những dưỡng chất còn thiếu trong chế độ ăn của mình. Ngoài ra, bạn cũng nên chắc chắn bản thân đang nạp đủ lượng calo cần thiết.
[inline_article id=786]
6/ Bổ sung đủ nước
Đảm bảo uống đủ ít nhất 2-2,5 lít nước mỗi ngày. Chủ động bổ sung nước cho cơ thể, không chờ đến khi khát mới uống.
7/ Khám định kỳ
Thường xuyên kiểm tra sức khỏe cũng như chiều cao và cân nặng của bé. Nếu thấy con có dấu hiệu nhẹ cân, suy dinh dưỡng, mẹ nên tham khảo ý kiến bác sĩ để có chế độ ăn hợp lý hơn.
>>> Xem thêm thảo luận có chủ đề liên quan:
MarryBaby

1. Chăm sóc trẻ bị sốt: Để trẻ ăn món trẻ thích
Khi bị sốt, trẻ luôn có xu hướng từ chối mọi món ăn. Vì vậy, mẹ không nhất thiết phải ép trẻ ăn những món lành mạnh như ngày thường. Nếu trẻ muốn ăn ngọt, ăn vặt, sẵn sàng phục vụ trẻ. Miễn là không phải những món làm tình trạng bệnh của trẻ nặng nề thêm.
2. Trẻ bị sốt: Nới giãn thời gian xem tivi
Hằng ngày, ba mẹ luôn đặt ra thời gian giới hạn xem tivi, máy tính bảng cho con. Tuy nhiên, đến khi trẻ bị sốt, để dỗ trẻ không quấy khóc, khó chịu, chẳng còn cách nào khác là làm dịu con bằng các “cô trông trẻ” bất đắc dĩ kia. Buổi tối trước khi ngủ, nếu bé có yêu cầu mẹ đọc hơn chục lần truyện cổ tích bé thích, hẳn mẹ phải làm theo dù có mệt mỏi thế nào nhé!
3. Trẻ bị sốt: Cho con thoải mái nghỉ ngơi
Các bác sĩ nhi luôn khuyên ba mẹ nên cho trẻ tiếp xúc với không khí bên ngoài, ở lâu trong nhà có thể làm trẻ lâu khỏi bệnh hơn. Tuy nhiên, nếu trẻ chỉ thích loanh quanh trong nhà, cứ để con thoải mái mẹ nhé. Được làm những gì mình thích, bé sẽ vui vẻ, dễ chịu hơn.
4. Trẻ bị sốt: Du di quy tắc lễ nghi
Mẹ luôn dạy con phải nói xin lỗi, cảm ơn, làm ơn mỗi khi muốn nhờ ai làm điều gì hoặc được ai làm điều gì cho. Tuy nhiên, trẻ bị sốt sẽ rất kiệm lời nói. Ba mẹ không nên trách bé khi bé nói trống không hoặc tỏ vẻ khó chịu. Cơn sốt làm bé lúc nào cũng mệt mỏi, thông cảm cho bé nhé!
5. Chăm sóc trẻ bị sốt: Bỏ vài ngày không đánh răng
Khi bị sốt, đôi khi về đêm, trẻ rất khó ngủ vì mệt. Thay vào đó, mỗi khi uống thuốc xong, trẻ lại rất dễ buồn ngủ vì tác dụng của thuốc. Lúc này, mẹ có muốn bé đánh răng cũng không được. Để con ngủ và nghỉ ngơi theo ý muốn của mình mẹ nhé! Sau khi hồi phục, mẹ dắt bé đến nha sĩ cũng chưa muộn đâu.
Tuy nhiên, việc chọn lựa các loại thực phẩm tốt cho bé ăn dặm là rất quan trọng. Ngoài việc biết những món ăn tốt cho trẻ; mẹ cũng cần hiểu những thực phẩm không nên cho bé ăn dặm là gì. Đồng thời, biết nguyên tắc khi chọn thực phẩm cho bé.
1. Nguyên tắc khi chọn thực phẩm cho bé ăn dặm
Khi vào độ tuổi tập ăn dặm; và có dấu hiệu sẵn sàng ăn dặm; mẹ cần thực hiện quá trình tập ăn dặm cho bé một cách kiên nhẫn. Về cơ bản, nguyên tắc khi chọn thực phẩm cho bé ăn dặm đó là: không nên cho bé ăn dặm những thực phẩm có nguy cơ gây dị ứng cao.
Theo CDC Hoa Kỳ, thực phẩm có khả năng gây dị ứng bao gồm các sản phẩm từ sữa bò, trứng, cá, động vật có vỏ, hạt cây, đậu phộng, lúa mì, đậu nành và mè. Do đó, mẹ hãy đợi đến khi bé lớn hơn mới cho trẻ ăn những loại thực phẩm này.

2. Những thực phẩm không nên cho bé ăn dặm là gì?
2.1 Muối ăn

Muối sẽ không tốt cho thận của bé. Do đó, khi nấu cháo cho bé ăn dặm, mẹ không nêm nếm muối, gia vị hoặc sử dụng các nước kho thịt.
Ngoài ra, mẹ cũng cần tránh một số thực phẩm có nhiều muối như:
- Bánh quy mặn: Đây quả là món lý tưởng để cho bé tập cắn và nhai, nhưng nó gây ra sự thiếu hụt các dưỡng chất cần thiết đến từ bữa ăn chính. Tương tự như việc cho ăn ngọt; bé ăn mặn nhiều không tốt cho răng.
- Các món ăn chế biến sẵn: Mẹ nên nấu cho bé những món với nguồn nguyên liệu tươi sống, chưa qua tẩm ướp chế biến. Thực phẩm chế biến sẵn vốn dĩ có nhiều phụ gia, chất bảo quản. Hơn nữa, lượng đường, muối và chất béo không tốt cho sức khỏe của bé.
- Thịt lợn muối xông khói.
- Xúc xích.
- Khoai tây chiên rắc thêm muối.
- Đồ ăn vặt có vị mặn.
2.2 Đường

Bé trong độ tuổi ăn dặm không cần đường. Do đó, mẹ cần tránh đồ ăn nhẹ hoặc các món nước uống có nhiều đường (ví dụ nước ép trái cây; hoặc các chế phẩm từ hoa quả nói chung).
Một số món ăn quen thuộc nhưng rất nhiều đường có thể kể đến như:
Nước ngọt: Nước ngọt, nói không ngoa, chứa hàng tấn đường hóa học; có thể nhanh chóng “tàn phá” sự phát triển răng lợi của bé. Trẻ uống nhiều nước ngọt; sẽ có thể trở nên chán các loại nước bổ dưỡng khác.
Nước ép trái cây: Tại sao xuất phát từ trái cây nhưng lại không có lợi cho sức khỏe bé? Thực tế, hầu hết lượng chất xơ trong trái cây bị mất trong quá trình ép nước; thành phần còn lại chủ yếu là đường.
Với trẻ sơ sinh, cho uống nước ép quả là một sự lãng phí việc bổ sung năng lượng. Đường trong nước ép trái cây có thể khiến bé bị rối loạn tiêu hóa; dẫn đến tiêu chảy. Nếu mẹ muốn bổ sung vitamin C vào khẩu phần ăn của trẻ, nên cho trẻ ăn trái cây tươi cắt lát nhỏ.
Món tráng miệng từ gelatin: Gelatine là một chế phẩm tạo ra từ chất collagen chế biến từ da và xương động vật. Nhiều mẹ nghĩ rằng đây là lựa chọn tốt để bổ sung protein cho bé. Tuy nhiên, thực chất, sau món tráng miệng mềm mềm, dai dai, bé chỉ nạp đường, hương liệu nhân tạo, phẩm màu vào trong cơ thể.
2.3 Những thực phẩm nhiều chất béo bão hòa, mẹ không nên cho bé ăn dặm

Những thực phẩm chứa nhiều chất béo bão hòa mẹ không nên cho bé ăn dặm. Điển hình như khoai tây chiên giòn, bánh quy và bánh ngọt. Khi mua sắm hay đi chợ; mẹ cần kiểm tra nhãn dinh dưỡng để giúp chọn thực phẩm ít chất béo bão hòa hơn.
>> Mẹ xem thêm: Vì sao cần bổ sung kali cho bé? Nguồn thực phẩm giàu kali
2.4 Mật ong

Đôi khi, mật ong có chứa vi khuẩn có thể tạo ra chất độc trong ruột của trẻ; dẫn đến ngộ độc botulism ở trẻ sơ sinh; đây là một căn bệnh rất nghiêm trọng.
[key-takeaways title=””]
Mẹ không cho trẻ ăn mật ong cho đến khi trẻ được hơn 1 tuổi. Mật ong là một loại đường, vì vậy tránh mật ong cũng sẽ giúp ngăn ngừa sâu răng.
[/key-takeaways]
2.5 Các loại hạt và đậu phộng nguyên hạt

Không nên cho trẻ dưới 5 tuổi ăn các loại hạt và đậu phộng nguyên hạt vì trẻ có thể bị nghẹn. Mẹ có thể cho bé ăn các loại hạt và đậu phộng từ khoảng 6 tháng tuổi; miễn là chúng được nghiền nhỏ, xay nhuyễn hoặc một loại hạt mịn hoặc bơ đậu phộng.
Nếu có tiền sử dị ứng thực phẩm hoặc các loại dị ứng trong gia đình; mẹ hãy nói chuyện với bác sĩ trước khi cho bé ăn hạt, đậu phộng.
2.6 Một số loại pho mát – những thực phẩm không nên cho bé ăn dặm

Phô mai có thể là một phần của chế độ ăn uống cân bằng, lành mạnh cho trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ; đồng thời cung cấp canxi, protein và vitamin.
- Bé có thể ăn phô mai nguyên chất béo tiệt trùng từ 6 tháng tuổi. Điều này bao gồm phô mai cứng, chẳng hạn như phô mai cheddar nhẹ, phô mai tươi và phô mai kem.
- Trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ không nên ăn pho mát mềm bị mốc, chẳng hạn như brie hoặc camembert; hoặc pho mát sữa dê chín và pho mát mềm có đường vân xanh, chẳng hạn như roquefort.
Những thực phẩm như loại phô mai nêu trên không nên cho bé ăn dặm; vì chúng có thể chứa vi khuẩn tên listeria; không tốt cho bé sơ sinh. Tuy nhiên, những loại pho mát này có thể được sử dụng như một phần của công thức nấu chín vì vi khuẩn listeria bị giết khi nấu chín.
2.7 Trứng sống và chín lòng đào

Trẻ sơ sinh có thể có trứng từ khoảng 6 tháng. Tuy nhiên, mẹ cần tránh cho bé ăn trứng sống, trứng vịt lộn, trứng ngỗng hoặc trứng cút.
Ngoài ra, một số những thực phẩm từ trứng cũng không nên cho bé ăn dặm như hỗn hợp bánh chưa nấu chín, kem từ làm, sốt mayonnaise tự làm hoặc các món tráng miệng từ trứng chưa nấu chín.
2.8 Nước gạo – Một trong những thực phẩm không nên cho bé ăn dặm

Trẻ em dưới 5 tuổi không nên uống nước gạo để thay thế cho sữa mẹ hoặc sữa công thức dành cho trẻ em (hoặc sữa bò sau 1 tuổi); vì chúng có thể chứa quá nhiều thạch tín.
Gạo có xu hướng hấp thụ nhiều thạch tín hơn các loại ngũ cốc khác; nhưng điều này không có nghĩa là bé không thể ăn gạo. Gạo khi sản xuất đã có quy định về mức arsen vô cơ được phép tối đa trong gạo và các sản phẩm từ gạo; thậm chí mức nghiêm ngặt hơn được đặt ra đối với thực phẩm dành cho trẻ nhỏ.
Đừng lo lắng nếu bé đã uống nước gạo. Không có rủi ro nào ngay lập tức; nhưng tốt nhất mẹ nên chuyển sang một loại sữa khác.
2.9 Những thực phẩm không nên cho bé ăn dặm khác

Ngoài những thực phẩm không nên cho bé ăn dặm kể trên; mẹ cũng lưu ý về những loại thực phẩm sau để tránh cho bé ăn dặm nhé:
- Viên thạch thô: Những viên thạch thô có thể gây nguy cơ nghẹt thở cho trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ. Nếu mẹ đang làm thạch từ những viên thạch thô; hãy đảm bảo rằng mẹ luôn làm theo hướng dẫn của nhà sản xuất.
- Động vật có vỏ sống: Các loại động vật có vỏ sống hoặc nấu chín nhẹ như trai, trai, sò có thể làm tăng nguy cơ ngộ độc thực phẩm. Vì vậy tốt nhất mẹ không nên cho trẻ ăn.
- Cá mập, cá kiếm và cá linh: Không cho bé ăn cá mập, cá kiếm hoặc cá linh. Lượng thủy ngân trong những loại cá này có thể ảnh hưởng đến sự phát triển hệ thần kinh của trẻ nhỏ.
[inline_article id=1132]
3. Cách chế biến thực phẩm cho bé ăn dặm
Sau khi biết những thực phẩm không nên cho bé ăn dặm; mẹ cũng “bỏ túi” những nguyên tắc khi chế biến thức ăn dặm cho bé:
- Trộn ngũ cốc và ngũ cốc đã nấu chín nghiền với sữa mẹ, sữa công thức hoặc nước để tạo độ mịn và dễ nuốt cho bé.
- Nghiền hoặc xay nhuyễn rau, trái cây và các loại thực phẩm khác cho đến khi chúng mịn.
- Các loại trái cây và rau củ cứng, như táo và cà rốt; thường cần được nấu chín để có thể dễ dàng nghiền hoặc xay nhuyễn.
- Nấu thức ăn cho đến khi đủ mềm để dễ dàng nghiền bằng nĩa.
- Loại bỏ tất cả mỡ, da và xương khỏi thịt gia cầm, thịt và cá trước khi nấu.
- Loại bỏ hạt và vết rỗ cứng trên quả, sau đó cắt quả thành từng miếng nhỏ cho bé ăn.
- Cắt thức ăn mềm thành những miếng nhỏ hoặc lát mỏng.
- Cắt thức ăn hình trụ như xúc xích, phô mai sợi thành các dải mỏng ngắn; thay vì để miếng tròn vì bé có thể mắc nghẹn.
- Cắt các loại thực phẩm hình cầu nhỏ như nho, anh đào, quả mọng và cà chua thành những miếng nhỏ.
- Nấu và xay mịn hoặc nghiền các loại hạt nguyên hạt của lúa mì, lúa mạch, gạo và các loại ngũ cốc khác.
>> Mẹ xem thêm: Nên cho bé ăn dặm vào giờ nào trong ngày khi tròn 6 tháng?
[key-takeaways title=””]
Tóm lại, những thực phẩm không nên cho bé ăn dặm bao gồm: thực phẩm hay các chế phẩm có nhiều muối, đường, chất béo bão hòa. Ngoài ra, mẹ cũng cần tránh cho bé ăn dặm mật ong; một số phô mai mềm, bị mốc; các loại hạt, đậu phộng; các loại động vật có vỏ; trứng sống, trứng lòng đào hoặc uống nước gạo.
[/key-takeaways]