Categories
Sự phát triển của trẻ Sức khỏe trẻ em Triệu chứng và bệnh phổ biến

5 điều mẹ có thể du di khi trẻ bị sốt

trẻ bị sốt
Du di cho con 5 điều sau khi con sốt mẹ nhé!

1. Chăm sóc trẻ bị sốt: Để trẻ ăn món trẻ thích

Khi bị sốt, trẻ luôn có xu hướng từ chối mọi món ăn. Vì vậy, mẹ không nhất thiết phải ép trẻ ăn những món lành mạnh như ngày thường. Nếu trẻ muốn ăn ngọt, ăn vặt, sẵn sàng phục vụ trẻ. Miễn là không phải những món làm tình trạng bệnh của trẻ nặng nề thêm.

2. Trẻ bị sốt: Nới giãn thời gian xem tivi

Hằng ngày, ba mẹ luôn đặt ra thời gian giới hạn xem tivi, máy tính bảng cho con. Tuy nhiên, đến khi trẻ bị sốt, để dỗ trẻ không quấy khóc, khó chịu, chẳng còn cách nào khác là làm dịu con bằng các “cô trông trẻ” bất đắc dĩ kia. Buổi tối trước khi ngủ, nếu bé có yêu cầu mẹ đọc hơn chục lần truyện cổ tích bé thích, hẳn mẹ phải làm theo dù có mệt mỏi thế nào nhé!

3. Trẻ bị sốt: Cho con thoải mái nghỉ ngơi

Các bác sĩ nhi luôn khuyên ba mẹ nên cho trẻ tiếp xúc với không khí bên ngoài, ở lâu trong nhà có thể làm trẻ lâu khỏi bệnh hơn. Tuy nhiên, nếu trẻ chỉ thích loanh quanh trong nhà, cứ để con thoải mái mẹ nhé. Được làm những gì mình thích, bé sẽ vui vẻ, dễ chịu hơn.

4. Trẻ bị sốt: Du di quy tắc lễ nghi

Mẹ luôn dạy con phải nói xin lỗi, cảm ơn, làm ơn mỗi khi muốn nhờ ai làm điều gì hoặc được ai làm điều gì cho. Tuy nhiên, trẻ bị sốt sẽ rất kiệm lời nói. Ba mẹ không nên trách bé khi bé nói trống không hoặc tỏ vẻ khó chịu. Cơn sốt làm bé lúc nào cũng mệt mỏi, thông cảm cho bé nhé!

5. Chăm sóc trẻ bị sốt: Bỏ vài ngày không đánh răng

Khi bị sốt, đôi khi về đêm, trẻ rất khó ngủ vì mệt. Thay vào đó, mỗi khi uống thuốc xong, trẻ lại rất dễ buồn ngủ vì tác dụng của thuốc. Lúc này, mẹ có muốn bé đánh răng cũng không được. Để con ngủ và nghỉ ngơi theo ý muốn của mình mẹ nhé! Sau khi hồi phục, mẹ dắt bé đến nha sĩ cũng chưa muộn đâu.

Categories
Sự phát triển của trẻ Sức khỏe trẻ em Các vấn đề sức khỏe trẻ em khác

Thiếu selen, thủ phạm làm bé biếng ăn

1/ Selen là gì?

Selen (Se) là một loại chất khoáng cần thiết cho hoạt động của con người. Selen được tìm thấy trong thạn, gan, lá lách và tinh hoàn. Tuy chỉ chiếm một phần rất nhỏ, khoảng 20mg nhưng selen đóng một vai trò quan trọng, có tác dụng bài trừ chất độc ra ngoài cơ thể. Ngoài ra, selen cũng đóng vai trò then chốt trong quá trình trao đổi chất và oxy hóa của cơ thể.

tre bieng an 1
Tăng cuờng bổ sung thực phẩm có chứa selen cho bữa ăn hằng ngày của con

Thiếu selen là nguyên nhân chủ yếu gây ra hội chứng Keshan, còn gọi là bệnh cơ tim sung huyết. Bệnh này được tìm thấy lần đầu tiên vào năm 1932 tại vùng Keshan (Vũ Hán – Trung Quốc) với cái chết của hơn mấy ngàn người một ngày.

2/ Chậm lớn do thiếu Selen (Se)

Theo tiêu chuẩn phát triển của WHO, trẻ sơ sinh 6 tháng tuổi có trọng lượng gấp 2 lần trọng lượng của bé khi vừa mới chào đời. Khi 12 tháng tuổi, bé có thể đạt trọng lượng gấp 3 lần trọng lượng lúc mới sinh. Mẹ nên đặc biệt lưu ý nếu như bé không tăng kg trong nhiều tháng liền hoặc chỉ tăng một chút.

[inline_article id=61207]

Có nhiều nguyên nhân làm nhóc nhà bạn chậm tăng cân như nhiễm bệnh, suy nhược, chế độ dinh dưỡng không đủ dưỡng chất, bé biếng ăn… Tuy nhiên, có nhiều bé vẫn ăn uống bình thuờng nhưng vẫn tăng cân chậm làm nhiều mẹ rất lo lắng. Theo các chuyên gia, nguyên nhân chủ yếu trong trường hợp này là do các bé không hấp thu được những dưỡng chất có trong thức ăn. Đặc biệt, chuyên gia nhấn mạnh rằng việc thiếu kẽm và selen cũng là một trong những nguyên nhân chính làm bé cưng chậm tăng cân.

Chị Phạm Thanh Thảo (25 tuổi- Đà Nẵng) chia sẻ: “Con của mình được 17 tháng tuổi. Bé rất ngoan, có thể tự ăn mà không cần mẹ nhắc nhở. Tuy nhiên không hiểu vì sao dù ăn uống đầy đủ nhưng bé vẫn không thể tăng cân được”. Rất băn khoăn và lo lắng cho tình hình sức khỏe của con, chị Thảo đưa bé đi khám bác sĩ. Sau một vài xét nghiệm, bác sĩ kết luận là do hàm lượng kẽm và selen của bé khá thấp làm bé phát triển chậm.

[inline_article id=62238]

3/ Vai trò của selen

Trong số các chất dinh dưỡng cần thiết, kẽm và selen đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển cân nặng của các nhóc. Selen đóng vai trò quan trọng trong quá trình trao đổi iot. Selen có chức năng giống như một loại enzym trong quá trình tái tạo hormone của tuyến giáp để kích thích đầu vào năng lượng. Nó cần thiết cho quá trình duy trì và phát triển của cơ thể.Thiếu kẽm và selen có thể làm cho trẻ biếng ăn, suy giảm hệ thống miễn dịch và làm cho bé chậm lớn. Theo thống kê, 50% trẻ em từ 6 tháng đến 7 tuổi bị thiếu kẽm và selen.

 

Tuổi Lượng Selen khuyên dùng (mg)
6-11 tháng tuổi 15
12-23 tháng tuổi 20
2-5 tuổi
25
6-9 tuổi 30
10-13 tuổi 40

Các mẹ có thể bổ sung thêm selen cho bé thông qua các thực phẩm hàng ngày. Một số thực phẩm chứa nhiều selen có thể kể đến như lúa mì, bắp, bắp cải, đậu hà lan, cà rốt, củ cải, cà chua, tỏi, các loại nấm, thịt động vật, đặc biệt là cá. Selen chứa nhiều trong gan và da cá. Đặc biệt cá ngừ là loại cá có chứa nhiều selen nhất. Ngoài ra, các loại tôm đồng, sò, hến cũng là một nguồn cung cấp selen vô cùng dồi dào và phong phú.

MarryBaby

Categories
Sự phát triển của trẻ Sức khỏe trẻ em Triệu chứng và bệnh phổ biến

Táo bón và những điều mẹ cần biết

Làm thế nào để biết con bị táo bón?

Khi bé đang trong độ tuổi chập chững biết đi thì không có một con số hay khoảng cách chính xác giữa các lần đi tiêu của bé. Bạn chỉ nên xét theo thói quen bình thường hàng ngày của bé. Bé có thể đi ngoài sau mỗi bữa ăn hoặc một hai ngày sau đó hoặc có thể dài hơn giữa các lần đi tiêu. Cách đi tiêu của bé phụ thuộc vào việc bé ăn và uống gì, vận động như thế nào và tốc độ tiêu hóa cũng như đi tiêu ra sao.

Những dấu hiệu bạn cần chú ý:

– Số lần đi tiêu ít, đặc biệt khi bé không đại tiện từ 4 ngày trở lên và cảm thấy khó chịu khi đi.

– Phân rắn, khô và khó rặn.

– Phân trong tả, trong bô hoặc quần của bé rất lỏng. Phân lỏng có thể đi qua phân cứng ở ruột dưới và ra ngoài ở dạng phân lỏng trong tả hoặc quần bé. Nếu thấy dấu hiệu này, đừng nghĩ rằng bé bị tiêu chảy, rất có thể đó là dấu hiệu của táo bón đấy.

Tại sao con tôi bị táo bón?

Ăn quá ít chất xơ: Nếu bé ăn nhiều sữa, pho mát, sữa chua hoặc bơ đậu phộng và không đủ rau quả, ngũ cốc có thể sẽ bị bón.

Sợ ngồi bô: Nếu con bạn bị áp lực phải tập ngồi bô thì có thể bé sẽ nín nhịn. Nếu bé có dấu hiệu căng thẳng khi phải đi tiêu như gồng mình, uốn cong lưng và mặt đỏ lên nhưng phân lại không ra được thì bé có thể sẽ nín nhịn.

tao bon
Bạn nên tạo tâm lý thoải mái khi tập cho bé đi vệ sinh

Dù cho con bạn chịu ngồi bô thì bé có thể ngồi chưa đủ lâu để đi hết. Việc này dẫn đến sự tích tụ chất thải khiến đại tràng phình lên và căng tức. Đại tràng dãn ra khiến phân to và rắn hơn càng khiến bé nín để không phải ngồi bô.

Thiếu nước: Nếu con bạn không uống đủ nước, cơ thể sẽ phản ứng bằng cách hấp thụ nhiều chất lỏng hơn từ những gì bé ăn, uống và kể cả từ chất thải. Điều này dẫn đến việc phân bị khô, rắn làm bé khó đi tiêu.

Ít vận động: Đi lại giúp máu lưu thông đến hệ thống tiêu hóa của bé. Vì thế, khi bé không vận động thì sẽ khó đi ngoài hơn.

Làm sao khi con bị táo bón?

– Tránh cho bé ăn các các loại thực phẩm gây táo bón: Các sản phẩm từ sữa như sữa, pho mát, sữa chua và kem. Ngoài ra, nếu bạn cho bé ăn quá nhiều chuối hoặc cà rốt cũng có thể khiến bé bị táo bón đấy.

– Tăng lượng chất xơ hấp thụ cho bé: Bạn nên cho bé ăn nhiều bánh quy giòn từ lúa mì, ngũ cốc, bánh mì và rau quả như mận, mơ, bánh ăn dặm, đậu Hà Lan và bông cải xanh.

[inline_article id=13017]

Để phân mềm, hãy cho bé uống nhiều nước hơn. Nước lọc là sự lựa chọn tốt nhất, nhưng một chút nước ép mận hoặc đào cũng mang lại hiệu quả. Tuy nhiên, bạn nên hạn chế lượng nước ép bé uống  mỗi ngày để phòng ngừa sâu răng và chứng biếng ăn. Bé uống đủ nước sẽ thay 4 đến 5 tã ướt mỗi ngày hoặc xi tiểu ít nhất sau mỗi năm hoặc sáu tiếng.

Khuyến khích bé bò, leo trèo và đi lại hàng ngày để tăng cường quá trình lưu thông máu khắp cơ thể.

Mát xa bụng bé: Để ba ngón tay dưới rốn bé và ấn nhẹ nhàng nhưng sâu xuống bụng bằng các ngón tay. Ấn đến khi bạn cảm thấy chắc tay. Tiếp tục nhẹ nhàng nhưng đều khắp trong vòng ba phút.

tao bon 1
Massage cho bé cũng là cách giúp con tránh táo bón

Đừng tạo áp lực để buộc bé ngồi bô khi bé chưa sắn sàng. Ép bé tập ngồi bô có thể làm bé sợ hoặc phản kháng và có khả năng sẽ nín nhịn đi tiêu. Thay vào đó, bạn nên tăng lượng chất xơ trong khẩu phần của bé, tạm dừng tập đi bô và tập lại khi nào bạn thấy bé đã sẵn sàng.

Khuyến khích bé dùng bô ngay khi bé có nhu cầu đi vệ sinh. Nếu bé nói chưa muốn đi thì hãy thử cho bé ngồi bô từ 5 đến 10 phút sau khi ăn sáng và ăn tối. (Trẻ bị táo bón lâu ngày có thể sẽ không nhận thức được trực tràng đã căng đầy). Cố gắng làm bé thoải mái bằng cách đọc sách trong khi bé đang ngồi bô. Đừng ép buộc bé ngồi nếu bé không thích, hoặc bé sẽ nghĩ việc tập đi bô như một hình phạt.

Nói chuyện với bác sĩ của bé về phương pháp điều trị: Có thể họ sẽ kê cho bé các loại thuốc giúp làm mềm phân, thuốc bôi trơn như dầu khoáng, thuốc đạn đặt ở hậu môn hoặc thuốc nhuận tràng. Thỉnh thoảng bạn có thể đặt thuốc cho con, nhưng nếu sử dụng quá nhiều thì bé có thể sẽ bị phụ thuộc vào nó để đi tiêu.

[inline_article id=936]

Lưu ý: Nếu con bạn nín nhịn đi tiêu thì cách điều trị bằng thuốc đạn hoặc thuốc xổ có thể làm bé khó chịu. Luôn tham khảo ý kiến của bác sĩ trước khi áp dụng phương pháp điều trị này.

Nếu bé đi ngoài phân khô và rắn làm vùng da nhạy cảm gần lỗ hậu môn (bạn có thể nhìn thấy những vết nứt, gọi là nứt hậu môn hoặc một chút máu), bạn có thể thoa kem dưỡng lô hội để liền vết nứt. Nhớ nói với bác sĩ về các vết nứt này.

MarryBaby

Categories
Sự phát triển của trẻ Sức khỏe trẻ em Các vấn đề sức khỏe trẻ em khác

Giấc ngủ của bé theo từng độ tuổi

Với một bản thống kê đã được các chuyên gia ghi lại, bạn có thể biết tương đối chính xác việc bé yêu có đang được ngủ đủ với nhu cầu của lứa tuổi mình hay không.

Giấc ngủ có thể dài hơn hoặc ngắn hơn tùy vào đặc điểm và thói quen của mỗi bé.

Thông thường, chúng ta trải qua 2 dạng giấc ngủ khác nhau, đó là giấc ngủ chuyển động mắt nhanh hay giai đoạn mơ – REM và giấc ngủ không mơ – non REM. Trong giai đoạn sâu của giấc ngủ không mơ, nguồn cung cấp máu cho các cơ bắp được tăng lên, năng lượng được phục hồi. Đồng thời với quá trình này là sự tăng trưởng và phục hồi của tế bào. Trong giai đoạn này, cơ thể cũng sẽ giải phóng các hormone quan trọng cho sự tăng trưởng và phát triển. Vì vậy, trẻ cần được ngủ đủ nhu cầu.

Dưới đây là mức thời gian trung bình bé cần ngủ mỗi ngày, bao gồm giấc ngủ ban ngày và ban đêm.

 

Tuổi Ban đêm Ban ngày Tổng thời gian
2 10 – 12 tiếng 1 – 3 tiếng 13 tiếng
3 9 – 12 tiếng 1 – 3 tiếng 12 – 13 tiếng
4 9 – 12 tiếng 0 – 2,5 tiếng 11 – 12 tiếng
5 8 – 11 tiếng 0 – 2,5 tiếng 10 – 11 tiếng
6 10 – 11 tiếng Không cần 10 – 11 tiếng
7 10 – 11 tiếng Không cần 10 – 11 tiếng
8 10 – 11 tiếng Không cần 10 – 11 tiếng

Lưu ý: Với những bé có giấc ngủ ban ngày lâu hơn thì ban đêm bé sẽ ngủ ít hơn và ngược lại.

Hầu hết trẻ em đều cần ngủ nhiều và đôi khi là nhiều hơn mức ba mẹ cho phép. Thông thường, khi một đứa trẻ có thói quen ngủ ít hoặc từ chối đi ngủ hoặc đi ngủ trước 10 giờ tối, bạn có thể cho rằng chúng không cần ngủ nhiều. Thực ra, đây là một số biểu hiện của chứng khó ngủ hay mất ngủ. Hội chứng này khiến bé mệt mỏi khi đến giờ ngủ.

Giấc ngủ trẻ em theo độ tuổi
Đối với trẻ sơ sinh, tổng thời gian ngủ mỗi ngày từ 14-17 tiếng

Nếu bạn nghĩ rằng con bạn có thể bị chứng mất ngủ, hãy tự hỏi mình:

  • Bé có thường xuyên ngủ gật trong lúc bạn đang lái xe không?
  • Bạn có phải đánh thức bé dậy mỗi buổi sáng không?
  • Bé có cáu kỉnh, khó chịu hay mệt mỏi trong ngày không?

Nếu câu trả lời của bạn là CÓ cho bất kỳ câu hỏi nào, có thể con của bạn đã ngủ ít hơn nhu cầu cơ thể của bé cần. Để thay đổi tình trạng này, bạn cần giúp bé có được thói quen đi ngủ có giờ giấc bằng cách thiết lập một “thời khóa biểu” ngủ nghỉ thích hợp và bám sát theo nó.

Khi càng lớn lên, giấc ngủ của bé càng ngắn lại. Tuy nhiên, nhiều bé đã đến tuổi 12-13 tuổi nhưng vẫn cần ngủ 9-10 tiếng mỗi ngày. Nếu đã trải qua một ngày vận động nhiều hoặc ốm bệnh, bé sẽ cần được nghỉ ngơi nhiều hơn thế.

MarryBaby

Categories
Sự phát triển của trẻ Sức khỏe trẻ em Rối loạn hành vi và phát triển

Chẩn đoán hình ảnh phát hiện trẻ tự kỷ từ 9 tháng tuổi

Bệnh tự kỷ cần được phát hiện càng sớm càng tốt trước 2 tuổi để can thiệp kịp thời, trong khi hầu hết cha mẹ chỉ thực sự nhận ra con mình mắc bệnh khi chúng đã lên 4 thì đã quá muộn. Một số người cũng hoài nghi vì nhìn thấy các vấn đề về phát triển ở con khi chúng chưa được 1 tuổi. Tuy nhiên, khoa học lại chưa đưa ra bất cứ công cụ chẩn đoán hình ảnh nào để xác định chắc chắn tình trạng bệnh của trẻ.

Phương pháp mới dựa trên cách tính toán chu vi và phân tích các phản xạ vùng đầu sẽ giúp chẩn đoán sớm chứng tự kỷ như một phần của bước chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho trẻ. Cách xác định bằng hình ảnh này dễ dàng thực hiện, nhanh chóng và hiệu quả; đặc biệt hữu ích đối với những trẻ không có biểu hiện sớm của bệnh và không thể nhận biết thông qua các triệu chứng thông thường.

tre tu ky 2
Phát hiện và can thiệp sớm sẽ giúp trẻ tự kỷ phát triển tốt hơn

Trong cuộc nghiên cứu tại trường Đại học George Washington (Mỹ), gần 1.000 trẻ đã được chia thành hai nhóm, một nhóm chẩn đoán sớm theo phương pháp này vào lúc 9 tháng tuổi, một nhóm không chẩn đoán sớm và tiếp tục theo dõi khi chúng được khoảng 4-6 tuổi.

15 trẻ có chu vi đầu lớn hơn hoặc bằng 75 phân vị (tức là có chưa tới 75% số trẻ có chu vi đầu nhỏ hơn các trẻ này), chu vi đầu lệch chuẩn cân đối 10% so với chiều cao toàn thân, hoặc có kết quả thử phản xạ vùng đầu quá kém đã được chẩn đoán có nguy cơ mắc chứng tự kỷ (30%) hay chậm phát triển ngôn ngữ (70%). Kết quả này chính xác 93% khi các chẩn đoán vào năm các trẻ này 3 tuổi cho thấy có đến 14 trẻ thực sự biểu hiện triệu chứng của bệnh.

Trước đây các bác sĩ nhi khoa chỉ lưu ý các bậc cha mẹ đề phòng sớm trường hợp trẻ mắc chứng tự kỷ thông qua cân nặng lúc chào đời (lớn hơn 4.5 kg hoặc nhẹ hơn 2.5 kg); hoặc tiếng khóc cao, chát chúa, căng thẳng; nhưng các biểu hiện này chỉ chính xác dưới 60% mà thôi.

Còn các biện pháp theo dõi hành vi, tâm lý và khả năng ngôn ngữ của trẻ thì ít nhiều khá cảm tính, không phải cha mẹ nào đủ kiến thức để “chẩn đoán” kịp thời cho con mình. Vậy nên phương pháp chẩn đoán hình ảnh chu vi và phản xạ vùng đầu chắc chắn sẽ giúp cha mẹ và các bác sĩ nắm bắt thời điểm vàng phát hiện trẻ tự kỷ để can thiệp kịp thời.

MarryBaby

Categories
Sự phát triển của trẻ Sức khỏe trẻ em Các vấn đề sức khỏe trẻ em khác

9 mẹo vặt sai lầm khiến con bệnh càng thêm bệnh

1. Ngửa đầu ra sau khi bị chảy máu mũi
Ngửa đầu về phía sau sẽ khiến máu chảy ngược vào họng, điều này rất có hại cho bé. Khi bé bị chảy máu mũi, cần để bé đứng hoặc ngồi với phần đầu nghiêng về phía trước, nắm nhẹ cánh mũi và bảo bé thở bằng miệng khoảng 10 phút, máu mũi sẽ ngưng chảy.

2. Giấm và bệnh thủy đậu
Bạn có thể đã nghe rằng nên dùng giấm nâu pha vào nước tắm sẽ giúp xoa dịu bệnh thuỷ đậu. Nhưng liệu việc dùng chất lỏng có tính axit để trị ngứa ngáy cho làn da nhạy cảm của bé có hợp lý không? Những bà mẹ có kinh nghiệm chắc chắn sẽ hiểu cách trị liệu này làm đau bé hơn là xoa dịu bé.

3. Dầu mù tạt để trị đau tai
Viêm tai sẽ gây ra đau tai, bệnh này rất phổ biến ở trẻ. Sử dụng dầu mù tạt có thể khiến phát sinh ráy tai nhiều hơn và có thể làm tắc lỗ tai của bé.

meo vat chua benh 2
Khi bé bị chảy máu cam, cần bóp nhẹ mũi bé và nghiêng đầu về trước

4. Kem đánh răng trị bỏng
Mẹ và bà ngoại có thể bảo bạn dùng kem đánh răng để trị bỏng. Nhưng sự thật là kem đánh răng rất có hại cho các vết bỏng và vết mẫn đỏ vì nó có thể làm khô vết thương và dẫn tới viêm da. Thay vì dùng kem đánh răng xoa vào vết bỏng cho bé, tốt hơn hết là bạn nên dùng nước mát để hạ nhiệt chỗ bị bỏng.

5. Đâm vết rộp
Đây là một trong những cách trị tại nhà tệ nhất cho bé mà ông bà xưa chỉ dạy. Khi đâm vết rộp, làn da nhạy cảm của bé có thể bị nhiễm trùng. Điều bạn nên làm chỉ là để vết rộp tự khô và vết thương sẽ tự động khỏi trong một vài ngày khi lớp da bên dưới phát triển và cứng cáp.

6. Sữa chua và đường để trị nhiễm nấm
Nếu bạn đã từng nghe sữa chua và đường có thể trị nhiễm nấm, làm ơn đừng thử! Để trị nhiễm nấm, bạn phải dùng sữa chua không đường vì đường có thể khiến bệnh thêm nghiêm trọng.

7. Giảm đau khi mọc răng
Cho bé uống ít rượu khi đang mọc răng có thể làm tê vết đau, tuy nhiên cách này lại rất nguy hiểm cho sức khoẻ của bé. Khi bé đang mọc răng, tốt hơn hết là bạn nên làm lạnh đồ cắn nướu cho bé trong tủ lạnh khoảng 15-20 phút và cho bé cắn món đồ chơi đó khi nó còn lạnh.

8. Bơ trị bỏng
Không có bằng chứng nào chứng minh bơ giúp trị bỏng. Trong hầu hết trường hợp, cách làm này có thể gây nhiễm trùng.

9. Làm sạch bằng nến xông tai
Đây là một phương pháp làm sạch tai bằng cách sử dụng một cây nến hình nón rỗng được phủ sáp ong. Tuy nhiên, sản phẩm này còn gây nhiều tranh cãi về ư và nhược điểm của nó. Dù sao đi nữa, bạn đừng bao giờ thử cách này cho con vì rất nguy hiểm và có thể ảnh hưởng đến thính giác của bé.

Categories
Sự phát triển của trẻ Sức khỏe trẻ em Các vấn đề sức khỏe trẻ em khác

Kinh nghiệm nuôi con đầu lòng

1. Mẹo nhỏ giúp con “dễ nuôi”

Khi cuộc sống gia đình có vẻ sung túc hơn, việc chăm sóc con cái cũng được đầu tư chu toàn hơn. Tuy nhiên, nếu ngay từ lúc vừa lọt lòng đã cho con cảm nhận sự đủ đầy, vô tình sẽ khiến con “khó nuôi”. Vậy phải làm sao đây?!

Ngay ngày đầu tiên đón bé yêu về nhà, mẹ cần chuẩn bị sẵn một chiếc chăn mỏng hoặc khăn lông cỡ lớn, đủ ấm lưng con, đặt dưới nền nhà sạch. Sau đó, mẹ đặt bé nằm lên trên khoảng 1 – 2 phút trước khi đưa bé lên giường nệm hoặc nôi. Mẹo nhỏ này giúp trẻ sơ sinh có một chút trải nghiệm với khó khăn đầu đời, như thế con sẽ “dễ nuôi” và ít khóc đêm hơn.

Kinh nghiệm nuôi con đầu lòng
Chia sẻ kinh nghiệm nuôi con đầu lòng với những bà mẹ khác cũng là một cách hay

2. Dành cho các mẹ nuôi con bằng sữa mẹ

Khi trẻ sơ sinh bú mẹ nuốt ừng ực từng hồi và tự động nhả ti mẹ ra rồi chìm vào giấc ngủ say, nghĩa là con đã bú no và mẹ căng tràn sữa. Nhưng nếu con bú mẹ đến sưng nứt và khóc thét vì đói, nghĩa là mẹ bị ít sữa. Vậy phải làm sao để mẹ có nhiều sữa?

Nếu mẹ còn trong tháng, nhờ người nhà nấu giúp đọt rau lang ăn kèm thịt kho tiêu và uống canh đu đủ hầm chân giò hoặc canh bắp cải cuộn thịt. Nếu mẹ đã ra tháng, không cần kiêng khem nữa, mẹ có thể nấu cháo nếp chân giò hoặc dùng xơ mướp sắc với thông thảo ra một chén nước, uống liên tục 3 – 4 ngày để kích thích sữa về. Bên cạnh đó, mẹ nên tăng cường thêm các cữ bú trong ngày, khi con bú sẽ kích thích tuyến sữa hoạt động tốt hơn.

3. Theo dõi hệ tiêu hóa của con

Các mẹ mới có con đầu lòng luôn lo lắng và theo dõi tiêu hóa của con từng ngày. Nhiều mẹ lo lắng đến mức, chốc chốc lại vạch tã của con ra xem và ngao ngán thở dài cho rằng con bị táo bón. Thực tế, trong giai đoạn sơ sinh, các bé được nuôi bằng sữa mẹ sẽ đi tiêu chậm hơn các bé bú bình từ 1 – 2 ngày. Trừ trường hợp, nếu quá 5 ngày mà con không đi tiêu thì mới cần cho con đi khám bác sĩ để kiểm tra đường tiêu hóa giúp con.

4. Con đầu lòng dễ bệnh hơn con thứ

Trong một nghiên cứu được tiến hành ở New Zealand, các nhà khoa học đã khảo sát trên những người bị béo phì tại thành thị ở độ tuổi 40-50 và so sánh chỉ số BMI (Body Max Index – tương quan giữa chiều cao và cân nặng cơ thể), độ nhạy với insulin cũng như hormon lưu thông đường huyết giữa những người là con đầu lòng và con thứ trong gia đình.

Kết quả cho thấy với cùng một chiều cao, những người là con đầu lòng thường nặng hơn khoảng 7-8 kg, đồng nghĩa với nguy cơ dễ mắc bệnh tim hơn. Con đầu lòng có nguy cơ mắc bệnh tiểu đường tuýp 2 cao hơn do độ nhạy với insulin thấp hơn con thứ 33%. Tế bào cơ thể của những người này ít đáp ứng với insulin, khiến tuyến tuỵ phải hoạt động nhiều hơn để bổ sung insulin giúp cơ thể hấp thụ đường.

con dau long 2
Hiện tại các nhà khoa học có thể khẳng định, về mặt bẩm sinh, con đầu lòng dễ có vấn đề sức khoẻ hơn, ngay cả khi chế độ tập luyện và chế độ dinh dưỡng được áp dụng hoàn hảo cho tất cả các thành viên trong gia đình. Tuy nhiên, vẫn chưa có kết luận nào cho những trường hợp sinh đôi, sinh ba.

Nhiều nghiên cứu trước đây cũng cho biết thứ tự được sinh ra có ảnh hưởng đến quá trình trao đổi và tổng hợp dưỡng chất. Ví dụ con đầu lòng có giai đoạn phát triển, tốc độ tăng cân sơ sinh nhanh hơn trẻ khác, và khi trưởng thành cũng có mức huyết áp và cholesterol cao hơn.

Người ta vẫn chưa tìm ra lý do tại sao thứ tự được sinh ra lại ảnh hưởng đến quá trình trao đổi chất của trẻ, chỉ mới phán đoán là do sự khác nhau trong mạng lưới mạch máu cấu tạo nên nhau thai. Trong lần mang thai đầu tiên của người phụ nữ, các mạch máu trong tử cung trải qua nhiều thay đổi về cấu trúc, theo đó những bào thai sau sẽ được hưởng môi trường tốt hơn bào thai đầu tiên.

Một nghiên cứu liên kết giữa trường Đại học Amsterdam, Trung tâm Nghiên cứu Kỹ thuật VTT – Phần Lan, trường Đại học Vermont, Viện Môi trường – Đại học Cornell thực hiện trên 532 người trên toàn nước Mỹ đã đưa ra một số cách giúp cải thiện tình trạng phát triển mất cân bằng ở con đầu lòng. Đó là khuyến khích những bữa ăn chế biến từ nguyên liệu tươi ngon, cả nhà cùng nhau hoạt động ngoài trời, cha mẹ chia sẻ với các con về kiến thức dinh dưỡng, cho trẻ ngủ đủ giấc vào buổi tối, chuẩn bị bữa trưa tại nhà cho con đem đi học…

Bên cạnh đó cha mẹ không nên sử dụng những món ăn ngon như một hình thức phạt hoặc phần thưởng cho trẻ, không bắt trẻ ăn kiêng thái quá khiến chúng luôn thèm ăn, hạn chế cho trẻ uống nước ngọt hoặc nước có ga và quan tâm giúp trẻ nâng cao sự tự tin.

Minh Tran

Categories
Sự phát triển của trẻ Sức khỏe trẻ em Triệu chứng và bệnh phổ biến

Trẻ bị sốt nên làm gì?

Tại sao trẻ bị sốt?
Khi bé bị sốt, bạn thường rất lo sợ. Nhưng bạn nên biết rằng bị sốt là dấu hiệu cho thấy hệ miễn dịch của bé đang hoạt động và chống lại sự lây nhiễm, đừng quá lo nhé. Khi bé bị nhiễm virus hay vi khuẩn, cơ thể bé sẽ phản ứng bằng cách tăng thân nhiệt.

Có nên đi khám bác sĩ?
Từ khi chào đời cho đến khi bé 3 tháng tuổi, bạn nên đưa bé đến gặp bác sĩ nếu có những triệu chứng sau:

– Thân nhiệt cao hơn 38 độ C.

– Bé trông xanh xao hoặc ửng đỏ, lờ đờ, không ngon miệng.

– Hành vi và bề ngoài của bé thay đổi theo hướng không tốt.

Trẻ bị sốt
Kiểm tra thân nhiệt của bé nếu bạn cảm thấy bé có dấu hiệu bị sốt

Khi đến gặp bác sĩ, phải nói rõ bé đã sốt bao lâu, bạn đã chăm sóc bé ra sao và những dấu hiệu khác bé đang gặp phải. Dựa trên thông tin này, bác sĩ sẽ xác định được mức độ nghiêm trọng và có phương pháp chữa trị phù hợp. Đừng tự ý cho bé uống thuốc, vì bé còn quá nhỏ, rất nguy hiểm khi cho bé uống sai liều, và thuốc có thể che giấu các dấu hiệu bệnh của bé, khiến bác sĩ khó khăn trong việc chẩn đoán bệnh.

Làm sao để giúp bé thấy dễ chịu hơn?

– Làm mát bé bằng cách mặc cho bé quần áo thoáng mát và đắp một chiếc khăn vắt nước ấm, sẽ giúp làm giảm nhiệt độ cơ thể bé. Tránh tắm bé với nước lạnh, có thể khiến bé bị lạnh đột ngột, thậm chí làm tăng cao thân nhiệt thực tế của bé.

– Cho bé bú sữa thường xuyên và có thể thêm cữ bú để giúp ngăn ngừa mất nước.

– Cho bé uống thuốc giảm sốt thích hợp theo toa bác sĩ.

– Không bao giờ cố gắng hạ nhiệt cho bé bằng cách xoa cồn lên da, vì cồn có thể thẩm thấu vào mạch máu, gây ra động kinh và các vấn đề nghiêm trọng khác.

Categories
Sự phát triển của trẻ Sức khỏe trẻ em Rối loạn hành vi và phát triển

Hội chứng thiếu tập trung ở trẻ nhận biết như thế nào?

Hội chứng thiếu tập trung ở trẻ hay còn gọi là rối loạn tăng động giảm chú ý. Đây là một hội chứng rất phổ biến khiến trẻ nhỏ không thể tập chung vào một việc nào đó. Căn bệnh này tuy không gây nguy hiểm đến tính mạng song sẽ ảnh hưởng lâu dài tới tương lai của bé về sau vì vậy cha mẹ nên cẩn trọng.Hội chứng thiếu tập trung ở trẻ

Hội chứng thiếu tập trung ở trẻ là gì?

Rối loạn giảm tập trung được chia thành hai dạng khác biệt. Dạng thường gặp là rối loạn tăng động giảm chú ý (Attention Deficit Hyperactivity Disorder) có liên quan đến thần kinh. ADHD là một chẩn đoán được gắn cho những trẻ và người lớn thường xuyên có biểu hiện hành vi nhất định, duy trì liên tục trong một khoảng thời gian. Các đặc điểm biểu hiện thường gặp là thiếu tập trung, bốc đồng và hiếu động thái quá.

Hầu hết trẻ được chẩn đoán ADHD có biểu hiện tăng hoạt động quá đà. Những trẻ này hay “nhảy” từ việc này sang việc khác, thể hiện cả sự tăng động thể chất và duy trì tập trung liên tục kém. Theo thống kê, cứ 100 trẻ thì có từ 3 đến 5 trẻ mắc chứng bệnh này. Việt Nam tuy chưa có thống kê cụ thể nhưng theo một nghiên cứu trên 1.594 học sinh ở hai trường tiểu học tại Hà Nội cho thấy tỷ lệ mắc bệnh là 3%.

Dạng ít gặp hơn được gọi là rối loạn giảm chú ý (Attention Deficit Disorder) mà không có tăng động. Mặc dù ít phổ biến như ADHD, thế nhưng ADD vẫn ảnh hưởng khoảng 4 đến 12% trẻ. Những trẻ này cũng rất kém trong việc tập trung, nhưng không bằng như hoạt động thể chất (hoặc phá hoại). Trẻ nam thường mắc bệnh này hơn trẻ nữ, gấp 3-4 lần. Tuy nhiên, trẻ nữ rơi vào nhóm không tăng động cao hơn. Những trẻ này thường ít nói và cư xử tốt hơn các trẻ nam mắc bệnh tương tự, nhưng sự giảm chú ý thì ngang nhau.

Mẫu số chung của hai nhóm này là thiếu tập trung lâu dài tới những công việc cần thiết để đạt được thành tựu. Hiện nay y học đã có các tiêu chuẩn nghiêm ngặt và chuẩn hóa mà các nhân viên y tế có thể áp dụng chẩn đoán. Phác đồ điều trị bao gồm tất cả chẩn đoán bệnh tâm thần và các chẩn đoán khác liên quan.

Nguyên nhân gây bệnh thường do các nguyên nhân như di truyền, bệnh lý khi mang thai, tổn thương não khi sinh, bệnh lý sau sinh. Bên cạnh đó, các yếu tố môi trường như môi trường sống ồn ào, đông đúc, lộn xộn hay ô nhiễm cũng được cho là nguyên nhân gây bệnh. Ngoài ra, cũng không loai trừ khả năng do trẻ nghiện trò chơi điện tử, internet hoặc xem ti vi quá nhiều.Hội chứng thiếu tập trung ở trẻ

Chẩn đoán hội chứng thiếu tập trung lâu dài ở trẻ

Trẻ bị ADD thường không được chẩn đoán trước giai đoạn 5-7 tuổi. Chủ yếu là do khi đến tuổi đi học, việc học ở trường đòi hỏi sự tập trung, vâng lời và khoảng thời gian không hoạt động, thì thầy cô giáo mới bắt đầu phát hiện những trẻ không đáp ứng được những yêu cầu trên. Ngược lại, khi bắt đầu 6 tuổi, trẻ bị ADD bắt đầu không “đạt chuẩn”. Mặc dù để thỏa điều kiện của ADD, các triệu chứng phải thể hiện trước 7 tuổi, nhưng nhiều khi những “triệu chứng” này không được xem là thái độ hành vi “có vấn đề”.

Theo Viện Hàn Lâm Nhi khoa của Mỹ thì chẩn đoán rối loạn này ở trẻ trước tuổi đi học có thể rắc rối hơn, và không đáng tin cậy. Không chỉ có năng lượng cao và thời gian tập trung chú ý ngắn so với thái độ hành vi của trẻ chập chững biết đi và trẻ chưa đến tuổi đi học bình thường, mà sự khác biệt trong tính cách và tốc độ phát triển cũng ảnh hưởng đến hành vi nữa.

Như vậy, có thể nói ADD là một chuỗi các hành vi gồm bốc đồng, hiếu động thái quá, thiếu chú tâm, mong manh, và đôi khi còn gây hấn. Việc chẩn đoán đòi hỏi có xuất hiện một vài (nhưng không phải tất cả) những hành vi trên. Chúng phải nhất quán theo thời gian và xuyên suốt những tình huống xã hội khác nhau. Một đứa trẻ hiếu động thái quá ở nhà nhưng ngoan ngoãn ở trường hoặc người lại, là có vấn đề ở hoàn cảnh chứ không phải bị ADD.

Các triệu chứng cũng phải hiện hữu ít nhất 6 tháng trước thì mới được chẩn đoán là ADD. Không có thử máu, không có chụp hình não và không có xét nghiệm nào tìm được bệnh ADD. Chẩn đoán là lâm sàng, dựa theo sự giám sát trẻ, thường được đánh giá bởi bảo mẫu hoặc thầy cô giáo của trẻ trong bản câu hỏi về thái độ hình vi. Bác sĩ thần kinh, bác sĩ tâm thần, bác sĩ nhi khoa hoặc bác sĩ gia đình đều có thể thực hiện chẩn đoán này.

Các thái độ hành vi đánh giá theo bảng câu hỏi sẽ được xếp loại và cho điểm. Nếu điểm cao đủ để nghi ngờ ADD, một thử nghiệm dùng thuốc có thể được đưa ra và đo hiệu quả bằng bảng câu hỏi thứ hai. Mặc dù mất đến vài tuần để hoàn thành, việc thực hiện quan trọng này mục đích nhằm tăng cường độ chính xác của chẩn đoán và cung cấp một số bằng chứng cho thấy thuốc cũng có hiệu quả khả quan.

Khi xem xét chẩn đoán lâm sàng như ADD, điều quan trọng là loại trừ những nguyên nhân nghiêm trọng khác gây thái độ hành vi như bị ADD. Chẳng hạn trầm cảm, rối loạn stress sau chấn thương, bị lạm dụng, có vấn đề về nghe hoặc nhìn, hay bị rối loạn học tập. Trên thực tế, 25% trẻ bị ADD cũng đồng thời có một số dạng rối loạn học tập, khiến nó đáng để sàng lọc tất cả những trẻ như vậy bằng một đánh giá phát triển toàn diện.Hội chứng tăng động giảm chú ý

Các hướng điều trị hội chứng thiếu tập trung

Các hướng chữa trị thường bao gồm không chỉ là dùng thuốc. Đây là một thực tế rất thường bị bỏ qua khi ADD được tranh luận phổ biến trên báo chí. Môi trường giáo dục thuận lợi cho việc học cũng quan trọng như điều trị y tế. Điều này thường có liên quan nhiều đến cấu trúc và chương trình giáo dục đặc biệt một cách thường xuyên và một lớp học nhỏ hơn.

Phụ huynh phải được đưa vào chương trình điều trị bằng cách cơ cấu cuộc sống ở nhà một cách khác biệt và giáo dục bản thân họ và gia đình về ADD. Đôi khi hình thức lấy ý kiến cũng có lợi. Đối với nhiều trẻ, chỉ cần can thiệp cơ cấu và thái độ hành vi là đủ, không cần điều trị bằng thuốc. Cũng không được điều trị cho trẻ chỉ bằng thuốc mà không có những can thiệp khác.

Kê thuốc điều trị hội chứng thiếu tập trung lâu dài

Khi có dấu hiệu cần điều trị bằng thuốc, methylphenidate, hoặc “Ritalin®” thường được thử đầu tiên. Mặc dù có tác dụng như chất kích thích với hầu hết chúng ta, Ritalin® lại có tác dụng ngược lại đối với những trẻ bị ADD, làm dịu tinh thần và giúp trẻ tập trung tốt hơn đối với phần lớn trẻ. Thống kê cho thấy 80% trẻ bị ADD được điều trị bằng Ritalin® và 85% số trẻ này đều có tác dụng tích cực ngắn hạn.

Một nghiên cứu gần đây cho thấy ước tính khoảng 3 triệu trẻ em bị chứng thiếu tập trung (ADD) đều được kê toa Ritalin®, gấp đôi con số năm 1990. Một liều thông dụng của Ritalin® là từ 5 đến 40 miligram mỗi ngày, chia làm 2 hoặc 3 cữ. Ritalin® có tác dụng nhanh, nhưng chỉ duy trì hiệu quả trong khoảng 4 tiếng, vì thế nên nhiều trẻ uống một liều vào buổi ăn sáng cho hiệu quả tốt lúc 10g sáng, nhưng cần thêm một liều thứ hai vào buổi trưa. Tác dụng phụ lớn nhất của Ritalin® là ức chế sự thèm ăn, do vậy cần phải giám sát chặt chẽ sự phát triển của trẻ khi cho dùng thuốc.

Cuối cùng…

Thống kê cho thấy con số chẩn đoán ADD đã tăng lên. Số lượng được kê toa methylphenidate, một loại thuốc điều trị từ năm 1937, đã tăng gấp ba trong vòng bảy năm qua. Tuy vậy điều này vẫn chưa rõ là do có sự gia tăng bệnh nhân ADD thật sự hay nhận thức đã cao hơn khiến dẫn tới việc chẩn đoán cũng tăng theo. Những gì mà bậc cha mẹ có thể làm để bảo vệ trẻ khỏi việc bị chẩn đoán quá đà là bảo đảm các chỉ dẫn chính xác phải được thực thi. Việc chẩn đoán chỉ nên được thực hiện khi thỏa điều kiện như mô tả trong DSM 3 (diagnostic and statistical manual of mental disorders-sách chẩn đoán và thống kê các rối loạn tâm thần).

Phụ huynh cũng cần thận trọng hơn khi trẻ dưới 5 tuổi được chẩn đoán là bị ADD. Ngộ độc chì và các rối loạn ngôn ngữ nên luôn luôn được xem xét trước và nhất thiết phải có đánh giá sự phát triển toàn diện. Trị liệu bằng thuốc với nhóm tuổi này thường không có tác dụng lâu và dễ bị nhiều tác dụng phụ.

Về ngắn hạn, ngoài việc quản lý thái độ hành vị và giáo dục, việc sử dụng thuốc phù hợp còn có thể cải thiện hành vi cho khoảng 90% trẻ. Trải nghiệm nhà trường tốt hơn và sự thành công trong việc học mang lại sự tự tin và lòng tự trọng cao hơn. Khi xét khía cạnh này, tình trạng này được cho là “có thể chữa trị được”. Tuy vậy y học chưa chứng minh được hiệu quả mang tính lâu dài của thuốc.

ADD là tình trạng lặp đi lặp lại, làm thay đổi tình cảnh và sự phát triển của trẻ, thế nên việc điều trị cần phải được đánh giá lại. Chính vì vậy mà việc định kỳ ngừng thuốc khi điều trị đối với hầu hết trẻ để đánh giá những nhu cầu thay đổi của trẻ là điều cần thiết.Hội chứng tăng động giảm chú ý

Chúng ta có đang làm hại con mình không?

Đây không phải là câu hỏi dễ trả lời. Việc chẩn đoán và điều trị trẻ một cách chính xác có thể giúp ích rất nhiều. Nhưng chẩn đoán nhầm có thể dẫn đến rủi ro khiến trẻ nhận phải sự điều trị không phù hợp và gây sai sót trong phân loại nhóm bệnh. Bậc cha mẹ, với vai trò là người bảo hộ cho trẻ, nên bảo đảm quá trình chẩn đoán tuân thủ các tiêu chuẩn đã được chấp nhận.

Phụ huynh cũng nên tham gia tích cực trong các nỗ lực quản lý thái độ hành vi và giáo dục, yêu cầu định kỳ đánh giá lại phương pháp điều trị và đừng bao giờ e ngại đặt câu hỏi và đưa ra ý kiến của mình. Hiệp hội Nhi khoa Hoa Kỳ (AAP) và Viện Hàn lâm tân thần học trẻ em và trẻ vị thành niên Hoa Kỳ (AACAP) không đưa ra hướng dẫn nào trong việc chẩn đoán trẻ dưới 6 tuổi. Dù vậy, tạp chí của hiệp hội y học Hoa Kỳ (JAMA) đã có báo cáo vào tháng 2/2000, cho thấy lượng thuốc gây tác động đến tâm thần đã được kê toa cho trẻ từ 2-4 tuổi tăng gấp 3 lần tính từ năm 1991-1995.

[inline_article id=61000]

Bậc phụ huynh phải không đồng ý cho bác sĩ chẩn đoán ADHD hoặc ADD và kê toa các loại thuốc điều chỉnh tâm thần cho trẻ chập chững đi. Trên hết, mặc dù các bác sĩ có thể là những chuyên gia về ADD, nhưng không ai rành rẽ một đứa trẻ hơn cha mẹ bé.

Linh Lan

Categories
Sự phát triển của trẻ Sức khỏe trẻ em Các vấn đề sức khỏe trẻ em khác

Xử trí khi trẻ bỏ giấc trưa và đột nhiên bé không chịu ngủ một mình

Khi trẻ bỏ giấc trưa

Theo thống kê, có khoảng 80% trẻ 2 tuổi vẫn ngủ trưa. Đến 3 tuổi, con số này giảm xuống còn khoảng 60%, nhưng có 1/4 trẻ 4 tuổi và thậm chí khoảng 10-15% trẻ 5 tuổi vẫn ngủ trưa mỗi ngày. Do thể chất mỗi trẻ khác biệt nên điều quan trọng là cha mẹ phải “đọc” được tín hiệu của trẻ chớ đừng áp đặt tuổi “đúng” hoặc theo cách “tốt nhất”.

Bảng tổng hợp dưới đây sẽ giúp bạn nhận ra các dấu hiệu cho thấy trẻ đã sẵn sàng để bỏ giấc ngủ trưa:

  • Tự tỉnh giấc trong một tâm trạng tốt.
  • Buồn ngủ vào ban đêm và duy trì giấc ngủ.
  • Ngủ khoảng 11 đến 12 tiếng một đêm.
  • Có hành vi tỉnh táo trong cả ngày, ngay cả khi không ngủ trưa.

“Cuộc chiến” để ép con bạn ngủ trưa càng mệt mỏi hơn khi bạn nghĩ trẻ luôn cần một giấc ngủ trưa mà bé không chịu ngủ. Và có phài trẻ luôn cần 1 giấc ngủ như thế?

1. Giai đoạn chuyển tiếp giờ ngủ trưa
Theo tiến sĩ Laura Jana, bác sĩ khoa nhi tại Omaha, Nebraska, nước Mỹ thì có một giai đoạn chuyển tiếp. Theo cô, trong khi nhiều trẻ vẫn ổn khi không ngủ trưa vài ngày thì có những trẻ sẽ mệt mỏi và trở nên cáu kỉnh. Một số trẻ dù đã quá 4 tuổi nhưng vẫn cần ngủ trưa để có sức khỏe tốt hơn.

Một số trẻ em, thường từ 2 tuổi, độ tuổi mà cha mẹ cho rằng không cần phải ngủ trưa, nhưng cơ thể bé thực chất vẫn cần hưởng lợi từ giấc ngủ ngắn này. Khi bỏ qua quá giấc trưa như vậy, trẻ dễ trở nên cáu kỉnh, mệt mỏi vào đầu giờ chiều.

Theo các chuyên gia, giai đoạn chuyển tiếp có thể kéo dài khoảng 6 tháng. Đây thật sự là khoảng thời gian dài có thể khiến các bậc cha mẹ cảm giác như tận 6 năm! Tuy vậy, bạn nên cho bé có một giấc trưa thường xuyên ngay sau bữa ăn, đây là lúc cơ thể có sự giảm nhiệt độ tư nhiên nên dễ buồn ngủ hơn. Lúc này, bạn hãy cùng con lên giường, đọc những truyện kể cho bé nghe, rồi ôm con vào lòng, mát-xa nhẹ hoặc xoa nhẹ vào lưng để làm dịu trẻ. Bạn đừng quên giảm ánh sáng, đóng các màn cửa, tắt ti-vi, dọn dẹp đồ chơi… Nếu bé không chịu ngủ trong vòng 45 phút, giấc trưa đã qua và bạn sẽ cần yêu cầu trẻ ngủ đêm sớm để đủ 11 đến 12 tiếng vào đêm hôm đó.

em_be_ngu
Cần cho trẻ ngủ đêm sớm cho đủ giấc nếu trẻ bỏ giấc ngủ trưa

2. Xử trí khi bé không chịu ngủ trưa

Nếu sau tất cả những cố gắng đó mà bé không chịu ngủ trưa, cha mẹ không nên xem đó là thái độ xấu. Thay vào đó, hãy xem đó là hành vi có thể đoán trước dù bạn có thể rất bực bội. Khi nhìn sự việc theo hướng này, bạn sẽ có thể lên kế hoạch và giải quyết hậu quả, chẳng hạn như cho trẻ đi ngủ sớm buổi tối.

Dù bé không chịu ngủ giấc trưa nhiều ngày liên tiếp, nhưng điều đó không có nghĩa là trẻ đã sẵn sàng để bỏ hẳn giấc trưa. Bạn cần xem xét liệu hành vi này có xảy ra thường xuyên hơn qua nhiều tuần liền hay không. Một vài trẻ cũng có thể tạm thời ngủ trưa lại sau một thời gian gián đoạn nếu bạn thấy trẻ thiếu tỉnh táo vào buổi chiều.

Khi bỏ hẳn giấc ngủ trưa, trẻ cũng cần một khoảng thời gian chuyển tiếp. Bạn hãy thử bắt đầu một thói quen cùng với trẻ trong thời gian này như dùng sách màu, câu đố và đồ chơi để con tự giải trí nhẹ nhàng. Bằng cách này, bạn cũng được nghỉ xả hơi.

Theo các chuyên gia, một giấc ngủ ngắn khoảng 20 phút là đủ tốt cho tất cả chúng ta. Đây là thời gian nghỉ ngơi vừa đủ, cho phép não bắt đầu tích hợp các dữ liệu vào bộ nhớ dài hạn và cung cấp năng lượng cho nửa sau của ngày. Vì vậy, một giấc ngủ trưa ở mọi lứa tuổi là điều được các chuyên gia thường khuyến khích.

3. Linh hoạt

Chìa khóa thực sự để đối phó với một đứa trẻ trong quá trình bỏ giấc trưa là phải linh hoạt với thời gian biểu. Nếu bé không chịu ngủ trưa, bạn nên cố gắng xoa dịu trẻ. Hãy điều chỉnh thời gian nghỉ trưa và để ý các dấu hiệu buồn ngủ của trẻ.

Bé không chịu ngủ 1 mình, mẹ phải “cương – nhu” kết hợp

Đừng lo lắng nếu con bạn đột nhiên không chịu ngủ 1 mình trong những năm đầu đời. Có nhiều lý do cho điều này, và đây là một số gợi ý thực tế để giúp bạn giải quyết vấn đề này một cách hiệu quả.

1. Con sợ bóng tối và muốn được quay vào phòng ngủ chung với ba mẹ

Trẻ từ chối để bạn tắt đèn ngủ và khóc khi bạn vẫn muốn thực hiện điều này.

bé không chịu ngủ
Càng lớn bé càng có nhiều lý do để không đi ngủ sớm

Để giúp con yên tâm ngủ một mình, đầu tiên, bạn có thể lắp một công tắc điều chỉnh độ sáng cho ánh sáng phòng ngủ của bé. Tức là cho phép bạn dần dần làm tối căn phòng nhiều hơn một chút mỗi đêm.

Thứ hai, bạn có thể ngồi với trẻ cho đến khi bé ngủ – mặc dù điều đó có thể sớm trở thành thói quen khó sửa.

2. Sau khi thức dậy vào nửa đêm, trẻ không thể ngủ lại được nữa

Bạn đang ngủ say thì đột nhiên cục cưng đang nằm bên cạnh mình, tỉnh táo và khuôn mặt thể hiện sự cô đơn. Bé nói rằng không thể ngủ lại và muốn được ở bên mẹ, được ăn món nào đó.

Lúc này, bạn đưa con trở lại giường, hôn trẻ một cách âu yếm và rời khỏi phòng. Kiên quyết từ chối khi bé đòi ăn, đòi chơi. Bạn nói rõ ràng với bé rằng đây không phải là thời gian để vui chơi và ăn uống. Bạn làm điều này mỗi lần bé thức dậy vào ban đêm cho đến khi bé ổn định tâm lý, ngủ ngon giấc.

3. Trẻ lo lắng về chuyện nho nhỏ nào đó. Chính điều này tác động đến giấc ngủ của bé khiến trẻ sợ phải ngủ một mình.

Trẻ vẫn đi ngủ trong khoảng thời gian quy định như mọi ngày mà không thể hiện bất kỳ sự khó chịu nào. Nhưng bạn có thể nghe thấy tiến động nho nhỏ từ trong phòng. Bé trở mình liên tục, thức giấc nhiều giờ sau đó. Điều này cũng tương tự như khi bạn có chuyện gì phải suy nghĩ, thức dậy vào nửa đêm và không muốn tự mình trở lại.

Bạn vào phòng và trò chuyện với bé rằng dù có chuyện đã xảy ra trong ngày chăng nữa thì cũng cần phải ngủ ngon ngày mai mới giải quyết tốt hơn được. Không có gì con phải quá lo lắng. Nhớ bảo con trẻ nằm trên giường khi bạn nói những điều này.

Ngày hôm sau, cha mẹ hãy suy nghĩ kỹ về những vấn đề có thể khiến bé mệt mỏi. Có thể chiều hôm trước bé đã gây lộn với bạn hàng xóm, hoặc ở trường mẫu giáo bị cô phạt hay chơi đùa quá trớn với anh/chị em của mình. Cố gắng làm những gì bạn có thể để hỗ trợ bé vượt qua căng thẳng để ngủ ngon giấc.

4. Cái gọi là nỗi sợ khi ngủ một mình thực ra chỉ là hành vi tìm kiếm sự chú ý từ cha mẹ của bé.

Trẻ không muốn bạn rời đi và để bé lại một mình trong phòng. Bé lý giải rất nhiều lý do về nỗi sợ hãi nhưng chỉ cần nghe tiếng bước chân mẹ quay trở lại là trẻ vui vẻ và muốn cha mẹ tham gia một trò chơi nho nhỏ nào đó ngay lập tức.

bé không chịu ngủ
Bé không chịu ngủ đôi khi chỉ là muốn tìm kiếm sự chú ý

Hãy cố gắng kiểm soát tình thân ngay lúc này. Ví dụ như cố gắng phớt lờ khi trẻ nhắn nhủ “Mẹ ơi, con không muốn ngủ một mình – và nếu bạn cảm thấy phải đi gặp hãy nói chuyện ngắn gọn, kết thúc nhanh để đưa bé đi vào giấc ngủ.

Ngoài ra, bạn nên dành cho bé sự chú ý đặc biệt mỗi buổi sáng thức dậy và nói rằng: “Mẹ cảm thấy rất vui và tự hào khi con có thể tự ngủ một mình. Con đã mạnh mẽ như một chú rồng rồi nè!”

Để trẻ có 1 giấc ngủ ngon, không có gì là quá khó. Bạn chỉ cần quan sát và chăm sóc trẻ đúng cách khi bé không chịu ngủ là con sẽ thích nghi với lịch sinh hoạt của mẹ “dàn xếp” ngay thôi!

Linh Lan